30 Tháng Tư:
Tìm hiểu lịch sử gia đình người Việt tị nạn
Nguyễn
Lâm Kim Oanh
April 30, 2022
Tìm Hiểu Lịch Sử Gia Đình Người Việt Tị
Nạn là cuốn
sách chúng tôi vừa xuất bản. Chúng tôi không thể tưởng tượng mình có
thể hoàn thành cuốn sách giáo trình dày gần 200 trang, chỉ trong
vòng hai tháng trời, từ lúc bắt đầu bản thảo cho tới khi xuất bản!
Đã có những lúc chúng tôi làm việc liên tục trong những khoảng thời
gian dài bốn năm tiếng đồng hồ không nghỉ và những ngày làm việc từ
14 đến 15 giờ mà không thấy mệt. Động lực gì giúp chúng tôi đạt được
ý muốn có sách ra đời trước thời điểm 30 Tháng Tư năm nay? Dưới đây
là những câu trích dẫn, từ các áng văn hay của đại văn hào James
Baldwin, nói lên được những suy tư đốc thúc chúng tôi hoàn tất cuốn
sách này.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2022/04/DD-Tim-Hieu-Gia-Dinh-Ti-Nan-1068x801.jpg
Bìa sách Tìm Hiểu Lịch Sử Gia Đình
Người Việt Tị Nạn của tác giả Nguyễn Lâm Kim Oanh. (Hình: Người Việt)
“Know
from whence you came. If you know whence you came, there are absolutely no limitations
to where you can go.” – James Baldwin
(Bạn
phải cần biết mình từ đâu đến. Khi bạn biết rõ bản thân từ đâu ra,
bạn sẽ không còn bị bất cứ giới hạn nào để đi đến nơi bạn muốn).
Chúng tôi vẫn tin giá trị của sự hiểu biết về nguồn cội bản
thân, và gần đây khi đọc được các tài liệu nghiên cứu giáo dục xác
định việc này, chúng tôi càng nóng lòng muốn tạo cơ hội cho giới
trẻ gốc Việt hiểu rõ và trân quý lịch sử gia đình người Việt tị
nạn của các em.
Khi các em được nghe kể về các đau khổ và mất mát gia đình đã trải
qua trong cuộc chiến, các em sẽ phát triển lòng nhân ái và sự cảm
thông với những người tị nạn khắp nơi trên thế giới. Khi các em biết
về hành trình khó khăn, hiểm nguy trên đường tìm tự do của gia đình,
các em sẽ ý thức và yêu quý hơn sự tự do dân chủ trên đất nước các
em đang sống.
Và khi các em hiểu thêm về những chặng đường khó khăn lúc ban
đầu của gia đình, những thách đố phải vượt qua khi bắt đầu cuộc
sống mới tại một xứ sở xa lạ, những trở ngại văn hóa và ngôn ngữ,
những sự kỳ thị và bất công mà họ đã phải “ngậm đắng nuốt cay,”
các em sẽ phát triển một ý chí phấn đấu và can trường, giúp chính
các em vượt qua những khó khăn trong tương lai.
“You
think your pain and your heartbreak are unprecedented in the history of the
world, but then you read.” – James Baldwin
(Bạn nghĩ rằng sự khổ đau và cay đắng bạn đang gánh chịu là chưa
từng có trên đời này ư? Bạn hãy tìm đọc đi).
Em nào tới tuổi trưởng thành, bước chân vào đời cũng phải
gặp một vài khó khăn và vấp ngã. Cái trải nghiệm vấp ngã, thất
bại hay đau khổ đầu đời thường là một chấn thương rất sâu đậm. Có
thể người thanh niên hoặc thiếu nữ đó sẽ nghĩ rằng sự bất hạnh
mình đang gánh chịu là “có một không hai” và do đó họ nhụt chí hoặc
không gượng dậy được.
Ngược lại, nếu những người trẻ này từng được nghe, đọc và
“thấm” về những khốn khổ tận cùng mà những gia đình gốc tị nạn
thường trải qua, như chứng kiến cảnh thân nhân bị tử vong vì bom đạn
ngay trước mắt họ mà không cứu được; như nghe tin thân nhân bị chết
đói chết khát hoặc bị cướp biển cưỡng bức tình dục trên đường đi
vượt biên; như thấy cha, chồng, con mình bị tù tội, đánh đập, đầy
đọa chỉ vì bất đồng chính kiến….Khi đọc và biết được những điều này,
họ sẽ ý thức rằng những khó khăn họ đang gặp không thấm vào đâu, và
sẽ vượt qua được dễ dàng.
“I
imagine one of the reasons people cling to their hates so stubbornly is because
they sense, once hate is gone, they will be forced to deal with pain.” – James
Baldwin
(Tôi mường tượng ra được rằng, một trong những lý do họ ôm chặt
lấy sự hận thù một cách ngoan cố, là vì họ cảm thấy một khi sự
thù hận biến mất, thì họ phải đương đầu với chính sự khổ đau).
“You
think your pain and your heartbreak are unprecedented in the history of the
world, but then you read.” – James Baldwin
(Bạn nghĩ rằng sự khổ đau và cay đắng bạn đang gánh chịu là chưa
từng có trên đời này ư? Bạn hãy tìm đọc đi).
Em nào tới tuổi trưởng thành, bước chân vào đời cũng phải
gặp một vài khó khăn và vấp ngã. Cái trải nghiệm vấp ngã, thất
bại hay đau khổ đầu đời thường là một chấn thương rất sâu đậm. Có
thể người thanh niên hoặc thiếu nữ đó sẽ nghĩ rằng sự bất hạnh
mình đang gánh chịu là “có một không hai” và do đó họ nhụt chí hoặc
không gượng dậy được.
Ngược lại, nếu những người trẻ này từng được nghe, đọc và
“thấm” về những khốn khổ tận cùng mà những gia đình gốc tị nạn
thường trải qua, như chứng kiến cảnh thân nhân bị tử vong vì bom đạn
ngay trước mắt họ mà không cứu được; như nghe tin thân nhân bị chết
đói chết khát hoặc bị cướp biển cưỡng bức tình dục trên đường đi
vượt biên; như thấy cha, chồng, con mình bị tù tội, đánh đập, đầy
đọa chỉ vì bất đồng chính kiến….Khi đọc và biết được những điều
này, họ sẽ ý thức rằng những khó khăn họ đang gặp không thấm vào
đâu, và sẽ vượt qua được dễ dàng.
“I
imagine one of the reasons people cling to their hates so stubbornly is because
they sense, once hate is gone, they will be forced to deal with pain.” – James
Baldwin
(Tôi mường tượng ra được rằng, một trong những lý do họ ôm chặt
lấy sự hận thù một cách ngoan cố, là vì họ cảm thấy một khi sự
thù hận biến mất, thì họ phải đương đầu với chính sự khổ đau).
Lúc trước tôi hay thắc mắc về sự biến đổi nhanh chóng của
các chú, các bác cựu quân nhân trong cộng đồng. Bình thường họ là
những người trầm tĩnh, chín chắn, và trò chuyện một cách điềm đạm.
Thế mà cứ vào dịp 30 Tháng Tư, họ hầu như biến dạng thành những con
người sôi nổi, bồn chồn trong các bộ quân phục cũ xưa của QLVNCH.
Họ tham gia các cuộc diễn hành, chân dậm vang từng bước, tay
phất cao các biểu ngữ tự biên, miệng la to các khẩu hiệu đến khản
cả tiếng, và trong mắt họ rực sáng sự hận thù. Lúc ấy, tôi đã
nhìn họ như những người “chống cộng quá khích” và coi như là một
hình ảnh đương nhiên của mỗi dịp Tháng Tư Đen.
Tôi thường nghe những lời phê bình trong đám đông, nhất là giới
trẻ, “Thôi bỏ qua những chuyện quá khứ đi mà sống cuộc đời mới.”
hoặc “Tại sao lại tiếp tục giam mình trong sự hận thù? Mình là
người tự do rồi mà!”
Cũng giống như nhiều người khác, tôi đã không có sự hiểu biết
và cảm thông cho sự thống khổ của các cựu tù nhân của các “trại
cải tạo.” Tôi chưa ý thức được những kinh nghiệm cay đắng, nhục nhằn
và đau đớn từ thể xác đến tinh thần của các vị này. Tôi không hề
hình dung ra được sự thù hận cộng sản bên ngoài của họ, là tấm
bình phong che giấu nỗi đau hằn sâu bên trong.
Để chuộc lại sai lầm này, chúng tôi muốn cho các em những tài
liệu chính xác và những dữ kiện rõ ràng. Khi được đọc và hiểu
tường tận, các em sẽ có sự cảm thông và kính phục các thân nhân
từng là tù nhân chính trị trong các trại giam khắp nơi trên quê hương
Việt Nam hàng chục năm sau cuộc chiến.
“There
are so many ways of being despicable it quite makes one’s head spin. But the
way to be really despicable is to be contemptuous of other people’s pain.” –
James Baldwin
(Có
quá nhiều cách để trở thành kẻ đáng khinh bỉ. Tuy nhiên điều đáng
khinh bỉ nhất là sự coi thường và làm ngơ trước nỗi khổ đau của kẻ
khác).
Trong quá trình soạn thảo, tìm đọc, suy ngẫm, lọc lựa và sắp
xếp các ý tưởng và khái niệm chính yếu cho giáo trình, không những
tôi học hỏi thêm được rất nhiều mà cả tâm hồn và trái tim tôi cũng
bị đánh động và thổn thức.
Có những buổi tối ngồi đọc suốt đêm các trang hồi ký của
các tù nhân trại cải tạo, tôi lạnh run cả người mặc dù đã trùm kín
từ cổ xuống chân. Các dòng chữ trên giấy không thể nào lột tả được
hết những nhục nhằn đau khổ họ đã chịu đựng qua nhiều năm tháng;
những nỗi tuyệt vọng mỗi khi ý thức sự giả dối và thất hứa của
kẻ thắng cuộc; và những tia hy vọng le lói mỗi khi nhận được thư
hoặc được thân nhân thăm viếng.
Nhưng rồi tia hy vọng lại dập tắt khi họ bị đưa ra những vùng
rừng thiêng nước độc miết tận giới tuyến Bắc Phần. Lòng tôi tê tái
nghĩ đến những người đã chết vùi thây trong các nơi chốn khốn cùng
đó; con cháu họ sẽ chẳng bao giờ được nghe được biết những câu
chuyện và kinh nghiệm đau thương của họ. Các thế hệ sau cũng chẳng
tìm được những dữ kiện gì về vấn đề này bằng Anh Ngữ.
Giữa những hành động và cách đối xử vô nhân đạo của bên
thắng cuộc là những tình huống thể hiện tình người, sự nhân bản và
lòng can đảm của các người cha, người chồng, người đồng đội với
nhau. Bên cạnh đó là những câu chuyện của những người phụ nữ lặn
lội đi tìm để thăm nuôi cha, chồng, anh, v.v… Hành trình gian nan của
họ thể hiện một sự hy sinh cao quý vô tận trong nhiều hoàn cảnh éo
le, tương xứng với bốn câu thơ của Hồ Dzếnh.
Cô gái
Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.
Song song với hồi ký của các tù cải tạo, chúng tôi ghi lại
các kinh nghiệm và hành trình của các người con, vợ, hôn thê, thân
nhân đi thăm nuôi họ trong cuốn sách này. Chúng tôi tin là khi các con
cháu đọc những câu chuyện này, các em sẽ không khỏi chạnh lòng cảm
thương cho ông bà mà còn ý thức hơn sự hy sinh cao cả của gia đình.
“To
accept one’s past – one’s history – is not the same thing as drowning in it; it
is learning how to use it.” – James Baldwin
(Chấp nhận quá khứ và quá trình trải nghiệm cuộc đời của mình
không có nghĩa là bị chết đuối trong nó mà là biết cách dùng nó).
Có những em sinh viên từng nói với tôi “Cha mẹ em không muốn
nói về quá khứ. Họ bảo rằng những đau buồn đó nên quên đi là tốt
hơn” hoặc “Khi ông em hồi tưởng lại thời gian ấy, giọng ông nghẹn
ngào, mắt ông ngấn lệ và không nói được nữa.”
Hồi tưởng lại những quá khứ đau thương là chuyện ít ai muốn
làm. Tuy nhiên khi làm được thì sự đau khổ giảm dần, và có lúc lại
tìm được những nhân bản hoặc tình người le lói trong đó.
Trong cuốn giáo trình này, chúng tôi có những phần gọi là
“Nối kết với bản thân và gia đình.” Trong đó có các đề nghị và
cách thức để các em biết gợi chuyện, hỏi han, chia sẻ và tạo một
mối tình thân với những người lớn tuổi trong gia đình trước khi nói
về quá khứ thời loạn ly.
Chúng tôi cũng đưa vào những mẩu chuyện, hình ảnh, và phim ảnh
mà các em có thể chia sẻ với gia đình để giới thiệu các đề tài
các em đang học về lịch sử người Việt tị nạn. Chúng tôi biết rằng
khi các thân nhân trải qua nhiều đau thương, có cơ hội nhìn lại quá
khứ, nhắc lại và kể lại được cho con cháu đang sẵn sàng đón nghe,
thì lòng họ được an ủi rất nhiều.
“It
demands great spiritual resilience not to hate the hater whose foot is on your
neck, and an even greater miracle of perception and charity not to teach your
child to hate.” – James Baldwin
(Để không oán thù kẻ đã từng chà đạp và đầy đọa mình, người ta
cần một ý chí phục hồi cao độ. Để không truyền cho con cháu sự oán
thù này, thì càng đòi hỏi một phép lạ về sự nhận thức và lòng bác
ái).
Chúng tôi tin vào việc tìm hiểu, ghi lại, và xác định những
gì đã xảy ra, cho dù chúng dã man như thế nào. Tuy nhiên, chúng tôi
không muốn các dữ kiện và hành xử vô nhân đạo xảy ra cho thân nhân
khiến các em chuốc lấy sự thù hận mà thế hệ trước đã mang phải.
Chúng tôi lồng vào các câu chuyện thật nói lên tình người, thể hiện
sự nhân bản cao quý trong các tình cảnh khốn cùng nhất.
“I love
America more than any other country in the world and, exactly for this reason,
I insist on the right to criticize her perpetually.” – James Baldwin
“Tôi yêu Hoa Kỳ hơn bất cứ quốc gia nào trên thế giới, và vì vậy,
tôi nhất định duy trì quyền được phê bình chỉ trích đất nước này
mãi mãi.”
Trong môi trường làm việc, tôi tiếp xúc với nhiều người trong
giới khoa bảng, học giả, và sinh viên có cái nhìn đầy mộng tưởng về
chủ nghĩa Cộng Sản. Họ tin vào khái niệm rằng muốn san bằng tất cả
các bất công xã hội thì phải dẹp bỏ những gì tạo nên sự phân chia
giai cấp. Đó là thuyết Tam Vô: Vô sản (vì tất cả thuộc về nhà nước
nên mọi người đều nghèo đói ngang nhau), vô tôn giáo (họ cho đó là
thuốc phiện ru ngủ những tầng lớp bị áp bức nên ngăn cấm, chỉ cần
tin vào đảng thôi), và vô gia đình (có nhà nước lo rồi khỏi cần gia
đình).
Sự thật, chưa có nơi nào trên thế giới thể hiện được một xã
hội Cộng Sản ấm no và an bình. Trong giáo trình này, chúng tôi muốn
các em ý thức sự hy sinh của gia đình khi quyết định từ bỏ quê cha
đất tổ, ra đi làm người tị nạn để được sống trong một đất nước mà
người dân có quyền sở hữu những gì họ gầy dựng, có quyền tín
ngưỡng và thờ phượng hoặc không, và có quyền chọn người đại diện
cho mình. Sự hy sinh của các gia đình tị nạn cho các thế hệ sau có
cả quyền công khai lên tiếng chỉ trích chính quyền và các vị lãnh
đạo quốc gia, để đất nước này luôn tiếp tục cải thiện, đem lại sự
ấm no cho tất cả mọi người dân.
“You
write in order to change the world, knowing perfectly well that you probably
can’t, but also knowing that literature is indispensable to the world… The
world changes according to the way people see it, and if you alter, even but a
millimeter the way people look at reality, then you can change it.” – James
Baldwin
“Bạn viết vì muốn thay đổi thế giới mặc dầu đã hiểu rất rõ là
bạn chẳng làm được; tuy nhiên bạn biết sự cần thiết của văn chương
trong cuộc sống… Thế giới thay đổi theo quan điểm con người nhìn nó,
và nếu bạn thay đổi chỉ một milimét cách người ta nhìn vào thực
tế, bạn cũng thay đổi nó được rồi. “
Tôi không mong mỏi thay đổi thế giới nhưng tôi ước mong thay đổi
nhiều hơn là 1 milimeter cách giới trẻ nhìn và hiểu về Lịch Sử Gia
Đình Người Việt Tị Nạn. Như thế, họ sẽ có được một sự cảm thông và
lòng biết ơn sâu xa cho các thế hệ đi trước, và lòng bác ái với các
nhóm tị nạn khắp nơi trên thế giới. [đ.d.]
No comments:
Post a Comment