Từ hội nghị COP26 đến
nhiệt điện than của Việt Nam
Hiếu
Chân/Người Việt
October 29, 2021
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/tu-hoi-nghi-cop26-den-nhiet-dien-than-cua-viet-nam/
Hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp Quốc về biến đổi
khí hậu, gọi tắt là COP26, sẽ diễn ra ở Scotland từ Chủ Nhật, 31 Tháng Mười.
Liên quan tới chuyện khí hậu, ở trong nước Việt Nam, người dân đang phản đối bản
dự thảo quy hoạch điện trên bàn của ông Phạm Minh Chính, thủ tướng, chờ ký duyệt.
Hai sự kiện này kết hợp với nhau đã một lần nữa cho thấy, nhà cầm quyền Cộng Sản
Việt Nam lại đẩy đất nước đi ngược với xu thế tiến bộ của thế giới và lún sâu
hơn nữa vào gọng kềm của Trung Quốc mà hậu quả sẽ rất nguy hiểm.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2021/10/A1-Nhiet-dien-than-Trung-Viet-1-1068x712.jpg
Nhà máy nhiệt điện
tại Hàng Châu, Trung Quốc, hôm 16 Tháng Bảy, 2021. (Hình minh họa: STR/AFP via
Getty Images)
COP26: Than đá chỉ
còn là dĩ vãng
Hội nghị
COP26, tên đầy đủ theo tiếng Anh là 26th Conference of the Parties
to the United Nations Framework Convention on Climate Change, quy tụ các nhà đàm phán
về khí hậu, một số nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo các công ty lớn nhất thế giới
của hơn 190 nước thành viên Liên Hiệp Quốc nhằm thỏa thuận những biện pháp mới
để thực hiện các cam kết về cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính làm trái đất
nóng lên đã được đề ra trong Hiệp Định Khí Hậu Paris 2015.
Tại Paris 2015, các chính phủ đã đồng ý phối hợp
hành động để hạn chế sự nóng lên của trái đất sao cho đến cuối thế kỷ này nhiệt
độ trung bình toàn cầu sẽ không vượt quá 2 độ C so với nhiệt độ trước cuộc cách
mạng công nghiệp giữa thế kỷ 19. Mỗi quốc gia sẽ đệ trình ra hội nghị Liên Hiệp
Quốc một kế hoạch cắt giảm việc phát ra khí carbonic (CO2) và các loại khí thải
khác mà các nhà khoa học cho là yếu tố chính làm trái đất nóng lên. Cứ năm năm
một lần, các kế hoạch này lại được đem ra xem xét, đánh giá những việc đã làm
được, chưa làm được và khuyến nghị thay đổi, sửa chữa. COP26 là hội nghị Liên Hiệp
Quốc đầu tiên xem xét các kế hoạch đã được đồng thuận tại hội nghị Paris
(COP21).
Việc đốt các loại nhiên liệu hóa thạch (dầu
khí, than đá) trong các nhà máy nhiệt điện và phương tiện giao thông (máy bay,
xe hơi) được coi là tác nhân chính gây biến đổi khí hậu, vì vậy, hầu hết các kế
hoạch cắt giảm khí thải của các quốc gia đều đặt trọng tâm vào việc thay thế dần
các nhà máy điện đốt than bằng công nghệ phát điện từ các nguồn tái tạo được
như điện gió, điện mặt trời… và vận động người dân chuyển từ xe hơi chạy bằng
xăng dầu sang xe hơi chạy điện.
Hiệp Định Khí Hậu Paris đã có tác động tới thực
tế, dù chậm. Theo các nhà khoa học của tổ chức Climate Action Tracker (CAT),
trong thời gian từ năm 2000 đến 2010, lượng khí thải trên toàn cầu gia tăng
trung bình 3% mỗi năm, nhưng đã tăng chậm lại, khoảng 1% mỗi năm trong giai đoạn
2011-2019. CAT nhận định, nếu tiếp tục các xu hướng phát ra khí thải như trước
khi có Hiệp Định Paris thì đến năm 2100, nhiệt độ trái đất có thể tăng hơn 4 độ
C, và đó là điều không thể chấp nhận được. Sau Hiệp Định Paris, nhiều nước đã mạnh
tay cắt giảm khí thải và nếu xu hướng hiện nay được duy trì thì nhiệt độ cuối
thế kỷ sẽ cao hơn khoảng 2.9 đến 3 độ C so với thời tiền công nghiệp. Tại
COP26, các nhà khoa học kêu gọi các chính phủ hành động mạnh hơn nữa để kéo con
số đáng sợ này xuống mức 1.5 độ C.
Năng lượng sạch (điện gió, điện mặt trời) đã mở
rộng nhanh hơn dự tính. Chỉ hơn mười năm trước, các tấm pin mặt trời (solar
panel), tháp điện gió (wind turbine) và xe hơi chạy điện vẫn là của hiếm và đắt
nhưng nay đã có ở khắp nơi và giá cả cũng hợp túi tiền hơn. Sau thành công của
hãng xe điện Tesla, hầu hết các hãng xe hơi đều chuyển hướng sang xe điện,
General Motors và Ford – hai ông lớn của ngành xe hơi Mỹ – thông báo sẽ chấm dứt
việc bán xe chạy xăng từ năm 2035.
Cùng trong thời gian này, các nhà máy nhiệt điện
đốt than – nguồn gây ô nhiễm chính – đã biến mất dần. Mười năm trước, Trung Quốc
và Ấn Độ mỗi tuần xây một nhà máy điện than mới. Nhưng bây giờ, do giá điện gió
và điện mặt trời rẻ hơn và áp lực của các nhà hoạt động môi trường ngày càng
tăng, các chính phủ và ngân hàng đã bắt đầu ngừng tài trợ cho việc xây dựng các
nhà máy điện than. Sau Hiệp Định Paris, có khoảng 76% các kế hoạch xây nhà máy
điện than trên toàn cầu đã bị hủy bỏ; 44 quốc gia cam kết không xây dựng thêm
nhà máy điện than mới và 40 quốc gia khác sẵn sàng cam kết tương tự sau khi hủy
bỏ các dự án nhà máy điện than đã được đề xuất trước đó.
Cam kết như vậy nhưng thực hiện được hay không
còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như sự chống đối của các thế lực chính trị và
kinh tế gắn liền với công nghiệp than đá và dầu khí, và những biến cố không lường
trước được. Vụ thiếu điện trầm trọng ở Trung Quốc hiện nay làm gián đoạn hoạt động
của các nhà máy và đẩy nhiều vùng của nước này vào tình trạng cúp điện luân
phiên, việc thiếu khí đốt sưởi ấm ở Châu Âu khi mùa Đông chớm bắt đầu buộc
chính quyền những nơi này phải tính toán lại kế hoạch năng lượng của mình. Tuy
vậy, loại bỏ nhiên liệu hóa thạch, nhất là than đá, thay bằng năng lượng tái tạo
được là xu hướng có tính chất tất yếu, không thể đảo ngược, của thế giới ngày
nay.
Việt Nam: “Cường
quốc điện than?”
Nhưng Việt Nam đi theo con đường khác. Ngày 8
Tháng Mười vừa qua, Bộ Công Thương Việt Nam trình lên Thủ Tướng Phạm Minh Chính
bản dự thảo Quy Hoạch Điện Quốc Gia thời kỳ 2021-2030, gọi tắt là Quy Hoạch Điện
8, trong đó đề nghị trong 15 năm tới Việt Nam tiếp tục xây dựng 27 nhà máy nhiệt
điện đốt than với tổng công suất phát điện là 30,792 megawatt (MW). Hiện các
nhà máy điện than Việt Nam phát ra khoảng 21,000 MW.
Nếu thực hiện theo đề nghị này, nguồn điện từ
các nhà máy điện đốt than sẽ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn điện của Việt
Nam. Theo tác giả Nguyễn Đăng Anh Thi trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn ngày 28
Tháng Mười, trên toàn cầu nhiệt điện than chiếm tỷ trọng cao nhất vào năm 2011,
khoảng 40.1% tổng nguồn điện, sau đó giảm dần và hiện chỉ còn 33.8%. “Trong khi
đó, sản lượng điện than của Việt Nam đã tăng liên tục từ năm 2012 và có bước ‘đại
nhảy vọt’ từ sau năm 2017, hiện chiếm tỷ trọng gấp gần 1.6 lần mức trung bình của
thế giới. Tỷ trọng sản lượng điện than của Việt Nam năm 2020 lên đến 52.9%,”
tác giả Anh Thi viết. Nếu tính cả nhiệt điện chạy bằng khí đốt hóa lỏng (LPG)
thì lượng điện phát ra từ các nhà máy đốt nhiên liệu hóa thạch sẽ chiếm tới 68%
tổng nguồn điện của Việt Nam hiện nay.
Phản ứng với bản quy hoạch điện quốc gia của Bộ
Công Thương, hơn 200 nhà khoa học thuộc 10 liên minh trong nước đã gửi “tâm
thư” (!) tới Thủ Tướng Chính, nói rằng bản dự thảo Quy Hoạch Điện 8 “đi ngược
xu thế chuyển dịch năng lượng đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu.” Trước đó, tại
diễn đàn Tuần Năng Lượng Nga, ông Chính khẳng định: “Việt Nam sẽ tích cực giảm
và hầu như không phát triển thêm nhà máy nhiệt điện than mới; nâng tỷ trọng
năng lượng sạch đạt ít nhất 20% vào năm 2030 và 30% vào năm 2045.” Lời nói của
ông thủ tướng chưa kịp “gió bay” thì bộ hạ của ông đã khẳng định ngược lại.
Ông thủ tướng sẽ nghe theo “tâm thư” của các
nhà khoa học hay sẽ ký vào bản quy hoạch của Bộ Công Thương? Kinh nghiệm thực tế
cho thấy dưới chế độ toàn trị, những phản ứng kiểu “tâm thư,” “kiến nghị” của
dân chúng chẳng có giá trị gì hơn những tờ giấy loại. Cho nên, có thể nói trước
là chính phủ Việt Nam sẽ phê chuẩn và làm theo kế hoạch của Bộ Công Thương dù
biết nó đi ngược với xu thế của thế giới.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2021/10/A1-Nhiet-dien-than-Trung-Viet-2-1068x601.jpg
Nhiệt điện than
Thái Bình 2 ở Việt Nam. (Hình minh họa: Chí Hiếu/Thanh Niên)
Thách thức của họ là ở chỗ, lấy đâu ra tiền để
xây dựng 27 nhà máy điện than trong lúc thế giới đã gần như quay lưng với loại
năng lượng “bẩn” này. Chắc chắn Hà Nội lại tìm tới Bắc Kinh.
Theo dữ liệu của Trung Tâm Chính Sách Phát Triển
Toàn Cầu, Đại Học Boston, từ năm 2013-2019, Trung Quốc đã đầu tư và tài trợ
68.8 gigawatt (GW) công suất các dự án điện than ở nước ngoài, trị giá khoảng
$15.6 tỷ. [1GW = 1,000 MW]. Việt Nam là nước vay nhiều tiền của Trung Quốc để
xây nhà máy điện than, với công suất lắp đặt 13,316 MW, chỉ sau Indonesia. Đáng
chú ý, bước “đại nhảy vọt” của ngành điện than Việt Nam mà tác giả Anh Thi nói ở
trên bắt đầu năm 2017, là thời điểm Trung Quốc đóng cửa các nhà máy điện than
cũ kỹ, lạc hậu ở trong nước để thay bằng các công nghệ mới; hàng loạt các nhà
máy cũ được tháo dỡ và “xuất cảng” sang Việt Nam và các nước Đông Nam Á theo những
thỏa thuận mờ ám.
Mặc dù Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình mới
đây đã nói trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc rằng Trung Quốc sẽ không tiếp tục
tài trợ cho việc xây dựng các nhà máy điện than ở nước ngoài, nhưng liệu lời
nói đó có đáng tin? Trung Quốc là nước phát ra nhiều khí thải nhất thế giới
nhưng ông Tập không đến Scotland tham dự COP26.
Một thách thức khác là Việt Nam lấy đâu ra
than đá để vận hành hàng chục nhà máy điện than mới? Vùng mỏ than Quảng
Ninh-Hòn Gai đã cạn kiệt sau gần thế kỷ khai thác và gần đây Việt Nam đã phải
nhập cảng than đá. Nửa đầu năm 2020, dù dịch COVID-19 làm gián đoạn nhiều hoạt
động kinh tế, Việt Nam vẫn phải nhập cảng 36.5 triệu tấn than đá trị giá khoảng
$3 tỷ, theo số liệu của hải quan Việt Nam. Trước đó năm 2019, Việt Nam đã nhập
cảng 43.7 triệu tấn than đá, gấp 13 lần so với năm 2014 là thời điểm trước khi
Việt Nam “đại nhảy vọt” các nhà máy điện than mang về từ Trung Quốc. Theo báo
VNExpress, giá mua than của Trung Quốc năm 2020 lên tới 6.2 triệu đồng ($270) mỗi
tấn, cao hơn năm lần so với giá than mua của Indonesia (1.1 triệu đồng [$48]/tấn).
Dù vậy, hoạt động của các nhà máy điện than ở Việt Nam vẫn phải dựa vào nguồn
cung cấp than đá từ Trung Quốc.
Từ những dữ kiện nêu trên, không khó để nhận
ra rằng, nhà cầm quyền Việt Nam không chỉ đi ngược với con đường của thế giới
mà còn phụ thuộc ngày càng sâu vào nước láng giềng phía Bắc dù vẫn thường xuyên
bị Bắc Kinh bắt nạt, chèn ép và xâm lấn.
Bản quy hoạch điện quốc gia không chỉ là chuyện
của ngành điện mà có tác động đến mọi mặt đời sống của người Việt trong nhiều
thập niên sắp tới. Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động nặng nề của
tình trạng biến đổi khí hậu. Mực nước biển dâng lên có thể nhấn chìm các vùng
châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long và các tỉnh ven biển vốn là địa bàn quần cư
lâu đời của người Việt. Giảm phát thải, chống biến đổi khí hậu không chỉ là yêu
cầu về kinh tế mà còn liên quan mật thiết tới sự sinh tồn.
Lẽ ra nhà cầm quyền Việt Nam nên lợi dụng xu
thế chống biến đổi khí hậu đang sôi nổi khắp thế giới để vận động sự ủng hộ,
tài trợ của quốc tế cho cuộc chuyển dịch sang năng lượng sạch thì Hà Nội lại tự
nguyện biến đất nước thành đống rác thải của Trung Quốc mà các thế hệ sau khó
mà thoát ra được. [qd]
No comments:
Post a Comment