21/10/2019
Trong
bối cảnh chính phủ của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ Nguyễn Xuân Phúc vẫn tiếp nối đà
say men thắng lợi với những con số tăng trưởng GDP lên đến 7% nhưng lại bị nghi
ngờ lớn về ‘ma số liệu’, còn ‘Tổng tịch’ Nguyễn Phú Trọng vẫn mê man về ‘đất nước
ta chưa bao giờ ổn định như thế này!’ và ‘triển vọng phát triển còn tốt lắm’,
vào ngày 10/10/2019 hãng đánh giá tín nhiệm có uy tín của quốc tế là Moody's đã
bất ngờ thông báo đang xem xét hạ mức tín nhiệm quốc gia Việt Nam xuống từ mức
Ba3 hiện tại, đồng thời xem xét hạ mức đánh giá 17 ngân hàng Việt Nam, vì một
lý do hiếm khi được công bố: Chính phủ Việt Nam chậm thanh toán một số khoản nợ
tới hạn.
‘Rủi ro tín dụng đáng kể’ và núi nợ xấu ngân hàng
Thang
xếp hạng của Moody's được cấu tạo từ Aa đến Caa với ký hiệu các con số 1, 2 và
3; con số càng thấp thì xếp hạng càng cao. Mức từ Aa đến Aa3 có chất lượng cao
nhất và rủi ro tín dụng thấp nhất; từ A1 đến A3 có chất lượng trên trung bình
và mức rủi ro thấp; từ Ba1 đến Ba3 có yếu tố đầu tư, nhưng rủi ro tín dụng đáng
kể; còn các mức xếp dưới nữa lần lượt có yếu tố đầu tư, nhưng rủi ro tín dụng
cao; và chất lượng thấp và rủi ro tín dụng rất cao.
Hiện
thời, mức Ba3 mà Moody's xếp hạng tín nhiệm quốc gia Việt Nam là có yếu tố đầu
tư, nhưng rủi ro tín dụng đáng kể.
Mức
xếp hạng trên là phù hợp với thực tế về tình trạng tăng trưởng nóng về tín dụng
(đẩy vốn ra thị trường) của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong nhiều năm qua, đặc
biệt vốn tín dụng được bơm vào hai kênh đầu cơ chủ yếu là thị trường chứng
khoán và thị trường bất động sản.
Hậu
quả của chính sách tăng trưởng tín dụng nóng và sử dụng đòn bẩy cao (margin) từ
những năm 2006, 2007 đến nay là một núi nợ xấu ngân hàng, trong đó nợ không thể
đòi (những khoản vay mất khả năng thanh toán) có thể chiếm đến 50% tổng nợ xấu.
Tổng
nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn cao ngất, có thể lên đến
900.000 - 1 triệu tỷ đồng hoặc hơn, bất chấp việc Ngân hàng Nhà nước và chính
phủ vẫn luôn công bố là đã ‘khuôn’ nợ xấu dưới mức 3%. Cho tới nay và sau 5 năm
Công ty quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) ra đời, hoạt động ‘xử lý nợ
xấu’ vẫn chỉ chủ yếu… trên giấy.
Và núi nợ nước ngoài
Từ
trước tới nay chính phủ và Bộ Tài chính Việt Nam vẫn luôn công bố rằng họ luôn
trả nợ nước ngoài đầy đủ và kịp thời. Tuy nhiên, họ lại chưa bao giờ công bố
chi tiết về các khoản nợ nước ngoài, bao gồm nợ của chính phủ, nợ do chính phủ
bảo lãnh, và nợ tự vay tự trả của các doanh nghiệp Việt Nam.
Nhưng
động thái xem xét hạ mức tín nhiệm Việt Nam của Moody's đã cho thấy tình trạng
chậm thanh toán nợ tới hạn đang ở mức báo động, điều mà có thể dẫn tới tình trạng
mất khả năng thanh toán và do đó dẫn tới hậu quả cuối cùng là vỡ nợ quốc gia.
Khi đưa ra những đánh giá về mức xếp hạng như thế, điều hiển nhiên là Moody's
đã phải có trong tay những cơ sở thông tin tài chính và kinh tế chắc chắn, thu
thập từ chính các chủ nợ của lớn nhất chính phủ Việt Nam như Ngân hàng Thế giới
(WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB), Nhật Bản…
Cho
tới nay, con số chung nhất được chính phủ Việt Nam công bố là chính phủ này nợ
nước ngoài hơn 100 tỷ USD.
Nhưng
ngoài con số trên, còn có hơn 100 tỷ USD khác là nợ nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam, để cộng chung lại số nợ nước ngoài của Việt Nam hiện thời là hơn
200 tỷ USD, gần bằng toàn bộ GDP một năm của đất nước này.
Nhưng
đó mới chỉ là nợ nước ngoài, chưa kể một núi nợ khác - nợ trong nước bằng tiền
đồng Việt Nam, tương đương hơn 200 tỷ USD nợ của chính phủ và của các doanh
nghiệp.
Đáng
chú ý, số nợ nước ngoài hơn 200 tỷ USD chỉ là nợ được thống kê chính thức,
trong khi vẫn có thể phát sinh những khoản nợ nước ngoài lớn từ các doanh nghiệp.
Vào tháng 9 năm 2019, Tổng cục Thống kê Việt Nam thình lình công bố phát hiện
thêm 76.000 doanh nghiệp mà trước đó không nằm trong sổ sách của cơ quan này -
mà động cơ phía sau công bố này là nhằm ‘hô biến’ GDP tăng thêm để lấy ‘thành
tích đại hội 13’ cho Thủ tướng Phúc. Nhưng cũng chính công bố phát sinh này -
chiếm đến hơn 10% tổng số doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam - chắc chắn sẽ kéo
theo nhiều khoản vay nước ngoài mà trước đây không được thống kê bởi Bộ Tài
chính.
“Doanh
nghiệp nhà nước vay nước ngoài tăng vọt, ai sẽ trả nợ?”- giới chuyên gia, báo
chí và cả quan chức cùng hốt hoảng kêu lên. “Nếu các doanh nghiệp này là doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước chiếm cổ phần chi phối không có khả năng
trả nợ thì nợ này ai trả, bởi đây đều là các doanh nghiệp nhà nước?”.
Thực
tế trong nhiều năm qua cho thấy nhiều tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vay nợ
tràn lan, với tâm lý vay là cực kỳ vô trách nhiệm. Thậm chí một số doanh nghiệp
còn có sẵn sàng “xù nợ” khi làm ăn lỗ lã.
Có
đến ít nhất 30% số tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước đã rơi vào vòng lỗ lã, và
đối mặt với nguy cơ phá sản kể từ năm 2008, khi kinh tế Việt Nam bắt đầu rơi
vào giai đoạn suy thoái.
Vào
năm 2015, thủ tướng lúc đó là Nguyễn Tấn Dũng cho biết Việt Nam phải trả nợ đến
20 tỷ USD. Đến năm 2016, người “may mắn” thế chỗ cho ông Dũng là Nguyễn Xuân
Phúc cho biết Việt Nam phải trả 12 tỷ USD. Những năm gần đây, nợ nước ngoài phải
trả cũng có thể lên đến hàng chục tỷ USD mỗi năm.
Bắt đầu thời kỳ vỡ nợ quốc gia?
Công
bằng mà xét, Nguyễn Xuân Phúc là đời thủ tướng “cực hình” nhất trong lịch sử tồn
tại của đảng Cộng sản Việt Nam. Trả nợ nhiều nhất, kinh tế be bét nhất, xã hội
hỗn tạp nhất, chính trị “tan nát” nhất…
Vào
năm 2017, chính phủ của thủ tướng ‘đổ vỏ’ Nguyễn Xuân Phúc đã phải đề ra hạn ngạch
bảo lãnh cho vay chỉ 1 tỷ USD - con số thấp nhất trong nhiều năm gần đây. Mức bảo
lãnh chỉ có 1 tỷ USD như thế đã phải giảm mạnh so với những năm trước đó (năm
2015 là 2,5 tỉ USD và 2016 là 1,5 tỉ USD), và giảm rất mạnh so với mức 6,6 tỷ
USD của năm 2014.
Sang
năm 2018 và 2019, hạn ngạch bảo lãnh này thậm chí còn ít ỏi hơn nữa, hoặc gần
như không còn tồn tại.
Nợ
nhiều đến mức vào năm 2017, chính phủ phải tuyên bố thẳng thừng sẽ không đưa nợ
vay nước ngoài của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vào khái niệm nợ công,
nằm trong Luật về Nợ công (sửa đổi). Điều này đồng nghĩa với việc chính phủ từ
chối trả thay nợ vay nước ngoài cho doanh nghiệp, và hẳn sẽ có nhiều doanh nghiệp
nhà nước phải phá sản.
Trong
bối cảnh giật gấu vá vai như thế, vào năm 2018 Ngân hàng thế giới đã đưa ra một
cảnh báo giật mình: trong 3 năm tới, có đến 50% nợ trong nước của Chính phủ sẽ
đáo hạn, tức chính phủ này phải đối mặt với nguy cơ rất lớn là không biết lấy
đâu ra tiền để trả nợ, trừ việc… in tiền ồ ạt.
Còn
đến giờ đã gần hết năm 2019, lọt thỏm vào giai đoạn ‘50% nợ trong nước của
Chính phủ sẽ đáo hạn’, tương ứng với đánh giá của Moody's về việc Chính phủ Việt
Nam chậm thanh toán một số khoản nợ tới hạn và đồng thời xem xét hạ mức đánh
giá 17 ngân hàng Việt Nam. Nếu động thái này được Moody's hoàn tất, sẽ có đến
50% trong số các ngân hàng Việt Nam rơi vào tình trạng bị hạ bậc tín nhiệm -
nhiều nhất từ trước tới nay.
50%
lại là ước tính của giới chuyên gia tài chính về khả năng có đến phân nửa số
ngân hàng đang tồn tại phải bị sáp nhập, hoặc cho phá sản do tỷ lệ nợ xấu quá
cao và không bảo đảm khả năng thanh toán cho khách hàng. Tuy nhiên mối nguy hiểm
thường trực này vẫn bị bưng bít bởi Ngân hàng Nhà nước trong những năm gần đây.
Chỉ là con đê bị trám bít loang lổ ấy sẽ bục vỡ vào một thời điểm nào đó mà
thôi - có thể gọi là thời điểm ‘Minsky’, tức hoàn toàn mất khả năng thanh toán các
khoản vay nợ.
Phá
sản ngân hàng đang trở thành tương lai hầu như chắc chắn, để cộng hưởng với
tình trạng mất khả năng trả nợ nước ngoài của chính phủ và doanh nghiệp, nền
tài chính Việt Nam sẽ rơi gọn cả hai chân vào hố sâu khủng hoảng.
Còn
ngay vào lúc này khi hiện ra công bố hạ tín nhiệm của Moody's, phải chăng Việt
Nam đã bắt đầu thời kỳ vỡ nợ quốc gia?
--------------------------
XEM
THÊM
Người Việt Online
October
21, 2019
HÀ
NỘI 21-10 (NV) .-
Chế độ Hà Nội vẫn không thoát khỏi cái
vòng kim cô nợ công ngày càng lớn hơn trước khi trù tính vay nợ nhiều hơn năm
ngoái để “đảo nợ”.
“Ngân khố quốc gia
thâm hụt, chi thường xuyên bộ máy ngày càng tăng, nợ bảo hiểm xã hội… buộc năm
2020, Chính phủ phải đề xuất Quốc hội cho vay thêm hơn 495,000 tỉ đồng (khoảng
$19 tỉ 678 triệu USD) để chi tiêu.” Báo Thanh Niên hôm Thứ Hai 21/10 dẫn một bản
báo cáo của nhà cầm quyền trung ương đề nghị xin quốc hội thông qua khoản vay mới
để đảng và nhà nước CS kéo dài sự sống.
Bản
tin của tờ Thanh Niên liệt kê số thâm thủng khổng lồ cần được bù đắp bằng cách
phát hành công trái nhiều hơn trước, với “nhiệm
vụ huy động vốn vay cân đối ngân sách trung ương năm 2020 là 459,500 tỉ đồng;
đáng chú ý một số khoản: bù đắp bội chi ngân sách trung ương là hơn 217,000 tỉ
đồng (khoảng $9 tỉ 331 triệu USD), trả nợ gốc của ngân sách trung ương hơn
217,000 tỉ đồng (khoảng $9 tỉ 331 triệu USD), vay để nhận nợ bảo hiểm xã hội
9,100 tỉ đồng…”
Trong khóa họp cuối năm ngoái, quốc hội của chế độ đã thông qua khoản vay để bù đắp bội chi ngân sách cho năm 2019 là 425,000 tỉ đồng (khoảng $18 tỉ 275 triệu USD), tức vay nhiều hơn tài khóa trước $1 tỉ 403 triệu USD. Năm 2019 đã phải bán công trái, tức vay nợ công, 363,000 tỉ đồng, năm 2017 là 240,000 tỉ đồng. Thâm thủng ngân sách CSVN ngày càng phình ra lớn hơn vì không có nhiều khả năng giảm thiểu nợ gốc nên vẫn chỉ vay nhiều hơn để “đảo nợ”.
Những
nguy hiểm của chủ trương vay nợ để “đảo nợ”, một cách trì hoãn trả nợ gốc bằng
cách vay tiền năm sau nhiều hơn năm trước, từng được các chuyên gia kinh tế tài
chính cảnh cáo nhiều lần trong những năm qua. Dù vậy, Hà Nội không làm theo các
khuyến cáo.
Tại
kỳ họp trước, Vietnamnet ngày 17/6/2019 thuật lại là “Ủy ban Tài chính ngân
sách của Quốc hội cho rằng: Ngân sách Trung ương vẫn chưa có thặng dư để
trả nợ; bên cạnh đó ứng trước dự toán ngân sách trung ương lớn (hết
2017 là 86,339 tỷ đồng) có xu hướng tăng tuy không tính trong nợ công
nhưng là nghĩa vụ bố trí của ngân sách nên càng khó khăn cho thu xếp
nguồn trả nợ các năm sau…”
Cũng
vào dịp Tháng Sáu vừa qua, khi bình luận về nợ công của chế độ Hà Nội ngày một
phình ra lớn hơn, ông Lê Đăng Doanh, một kinh tế gia từng là Viện trưởng Viên
quản lý kinh tế trung ương, đã khuyến cáo nhà cầm quyền CSVN “phải cắt giảm chi
thường xuyên” (nuôi bộ máy cai trị) và phải “tinh giản bộ máy” tức loại bỏ đám
cán bộ đảng viên con ông cháu cha ăn bám trong guồng máy cai trị.
Năm
nào cũng thấy nhà nước Hà Nội họp hành về “tinh giản biên chế” nhưng không thấy
bao nhiêu nhúc nhích.(TN)
No comments:
Post a Comment