Phạm Chí Dũng/Người
Việt
October
20, 2019
Có
lẽ đáng ngạc nhiên khi ông Mark Esper, người vừa trở thành bộ trưởng Quốc Phòng
Hoa Kỳ, sẽ có chuyến công du Việt Nam, nhiều khả năng diễn ra Tháng Mười, 2019,
với mục đích danh nghĩa là “thảo luận việc gia tăng hợp tác quốc phòng giữa hai
nước.”
Nếu
điều này đúng, thì đây là chuyến thăm Việt Nam lần thứ ba chỉ trong vòng hai
năm của các bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ.
Hai chuyến công du Việt Nam vào năm 2018 của
Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ James Mattis đã gần như công cốc. (Hình: Getty
Images)
Tiền
trạm cho Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Mark Esper là ông Randall Schriver, phụ tá
bộ trưởng Quốc Phòng phụ trách an ninh khu vực Ấn Độ Thái Bình Dương.
Randall
Schriver đã có một cuộc gặp với thứ trưởng Quốc Phòng Việt Nam, Thượng Tướng
Nguyễn Chí Vịnh. Tuy nhiên đã không có tin tức đặc biệt nào được đưa lên mặt
báo chí nhà nước Việt Nam về nội dung trao đổi giữa hai giới chức này.
Thậm
chí một số dư luận còn nghi ngờ không biết cuộc gặp Randall Schriver với Nguyễn
Chí Vịnh có gì được xem là thực chất hay không.
Mối
ngờ vực trên là có cơ sở. Bởi vào năm 2018, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ James
Mattis đã có đến hai lần công du Việt Nam, vào Tháng Ba và Tháng Mười, một mật
độ đáng ngạc nhiên, cho thấy Hoa Kỳ vẫn giữ nguyên chiến lược xoay trục về Châu
Á – Thái Bình Dương và mối quan tâm về vấn đề Biển Đông và Việt Nam.
Trước
hai chuyến thăm Việt Nam của James Mattis, cũng đã có những phụ tá Bộ Quốc
Phòng Mỹ làm việc với Bộ Quốc Phòng Việt Nam.
Thế
nhưng kết quả được xem là thành công nhất của James Mattis với phía Việt Nam chỉ
là một hàng không mẫu hạm của Mỹ là USS Carl Vinson cập cảng Đà Nẵng vào Tháng
Ba năm 2018, sự kiện lịch sử kể từ năm 1975, và từ sau năm 1995 khi Mỹ và Việt
Nam bình thường hóa quan hệ, gần giống một vành đai tạm thời bảo vệ cho Tập
Đoàn Dầu Khí ExxonMobil khai thác mỏ Cá Voi Xanh.
Ngoài
ra, người ta đã không nhận ra bất kỳ một dấu hiệu tiến triển nào trong khái niệm
được gọi là “làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và Mỹ.” Tất
cả vẫn chỉ dừng lại ở trạng thái “giao lưu.”
Từ đó đến nay, những đề nghị của Hoa Kỳ
được cho là muốn tiếp cận sâu hơn nữa hệ thống cảng biển Việt Nam, đặc biệt là
quân cảng Cam Ranh, hoặc một vị trí cảng biển là nơi có thể dùng làm căn cứ hậu
cần – kỹ thuật cho hải quân Mỹ, đã bị phía Việt Nam lặng lẽ khước từ.
Nguyễn
Phú Trọng, ngoài việc ngồi cả hai ghế tổng bí thư và chủ tịch nước còn là Bí
Thư Quân Ủy Trung Ương và nắm giữ cả vận mệnh quốc phòng của quốc gia, đã cùng
với Bộ Ngoại Giao của ông ta cố thủ
nguyên tắc “Ba Không,” nhất là không liên minh quân sự với nước này để chống
nước khác, và không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam
Ngay
cả khi đã bị Trung Quốc gây hấn và đe dọa sát sườn ở khu vực Bãi Tư Chính trong
hai năm liên tiếp 2017 và 2018, Trọng cũng chỉ muốn “dựa hơi” hàng không mẫu hạm
và các tàu chiến Mỹ để “hù” Trung Quốc.
Tức
là chỉ mở rộng khái niệm “Việt Nam tôn trọng tự do hàng hải” và cả “tự do hàng
không” để tàu chiến và máy bay Mỹ có thể áp sát các căn cứ quân sự của Trung Quốc
ở Biển Đông, nhưng vẫn không chịu nhả bất kỳ vị trí quân sự nào trên đất liền của
Việt Nam để việc hợp tác phòng thủ quân sự với Mỹ có được một chút gì đó thực
chất.
Nói
cách nào đó, hai chuyến công du Việt Nam vào năm 2018 của Bộ Trưởng Quốc Phòng
Hoa Kỳ James Mattis đã gần như công cốc.
Nhưng
trong thực tế, chính sách “Ba Không” của Việt Nam đã thẳng thừng gậy ông đập
lưng ông.
“Ba Không” và tương lai lộn cổ
Bởi cuộc chiến giàn khoan của Trung Quốc
còn lâu mới chịu kết thúc.
Đến năm 2019, vụ tàu thăm dò địa chất Hải Dương 8, và sau đó là hàng lô hàng lốc
phương tiện khai thác dầu như tàu cẩu Lam Kình, giàn khoan Hải Dương Thạch Du
982 kéo vào Biển Đông, giễu qua ngay trước mũi Bộ Chính trị Việt Nam, và có trời
mới biết còn bao nhiêu hình ảnh ngáo ộp nữa sẽ được Bắc Kinh cho trình diễn
trong tương lai gần…, đã và sẽ làm tê tái những kẻ vẫn cắm mặt giương cao lá cờ
mang tên “Mười Sáu Chữ Vàng” ở Hà Nội.
Liệu
đến lúc này, Việt Nam có chịu xem xét lại chính sách “Ba Không” và nín lặng từ
bỏ một phần của chính sách này?” Hay vẫn cố giữ nguyên chính sách đó và lại tìm
cách đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ… cho tới lúc té lộn cổ?
Tương
lai té lộn cổ của giới chóp bu chuyên thói bắt cá nhiều tay của Việt Nam là hầu
như không cần bàn cãi.
Đương Kim Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Mark
Esper. (Hình: Getty Images)
Cho
tới nay khi đã phải chịu sức ép nặng nề và liên tiếp của Trung Quốc ở Bãi Tư
Chính và một số vùng biển Phan Rang, Phan Thiết, Phú Yên…, Bộ Chính Trị Việt
Nam đã trở thành một kẻ cô độc theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen khi không nhận
được bất cứ sự ủng hộ nào, thậm chí còn không có nổi sự chia sẻ nào từ không chỉ
các nước trong khối ASEAN, mà còn từ 12 quốc gia “đối tác chiến lược” với Việt
Nam, kể cả Nga là nước có lợi ích trong dự án khai thác mỏ Lan Đỏ.
Nhưng
đau đớn nhất lại chính là “đối tác chiến lược toàn diện quan trọng nhất” –
Trung Quốc, theo cái cách cắm đầu ca tụng không còn biết liêm sỉ là gì của giới
lãnh đạo Việt Nam dành cho kẻ cướp, lại là kẻ đang dồn “đảng em” vào chân tường.
Chỉ
còn lại có Mỹ, đối trọng quân sự duy nhất với Trung Quốc trên Biển Đông, nhưng
chưa bao giờ là “đối tác chiến lược” của Việt Nam.
Nhưng
người Mỹ sẽ làm gì cho Việt Nam? Mỹ sẽ chỉ bảo vệ cho ExxonMobil và mỏ dầu Cá
Voi Xanh, hay còn muốn đứng bên Việt Nam ở Bãi Tư Chính?
Song
đến lúc này, rất có thể người Mỹ đã rút ra một bài học xương máu trong quan hệ
với các nước cộng sản: Mỹ càng tỏ ra vồ vập và vội vã bao nhiêu trong quan hệ hợp
tác thì chính thể độc tài ở Việt Nam càng kiêu ngạo cộng sản và càng nêu cao
tinh thần ỷ lại bấy nhiêu, trong khi vẫn không thể uốn thẳng lưng trước kẻ cùng
chung ý thức hệ là Trung Quốc.
Donald Trump gửi điều kiện nào qua Mark Esper?
Sau
ba lần ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam ở cấp Bộ Ngoại Giao, phát ngôn viên Tòa Bạch
Ốc đã im bặt. Tương tự, sau khi tiến vào Biển Đông, hàng không mẫu hạm USS
Ronald Reagan của Mỹ đã chỉ làm nhiệm vụ “tuần tiễu” mà chẳng thèm bén mảng đến
gần Bãi Tư Chính – nơi mà giới chóp bu Việt Nam đang lo sốt vó. Cách nào đó, người Mỹ đang cố
tình để mặc cho các tàu Trung Quốc tung hoành ở đó.
Tin
tức chính thức về chuyến công du Việt Nam của Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Mark
Esper lại xảy ra đồng thời với một thông tin không chính thức về chuyến đi Mỹ của
Nguyễn Phú Trọng bị hoãn lại.
Hoặc
Trọng không thể đi Mỹ vì gánh nặng sức khỏe đang trở nên quá nan giải đối với
ông ta, đặc biệt là những di chứng không thể xem thường sau cú bạo bệnh ở xứ
Kiên Giang “nhà ba Dũng” vào Tháng Tư, 2019.
Hoặc
ngay cả nhân vật nào được cử thay Trọng để đi Washington gặp Trump cũng không
thể chắc chắn là có được Tổng thống Mỹ tiếp hay là không.
Cách
chơi và đàm phán của người Mỹ đã thay đổi, thay đổi nhiều so với thời một tổng
thống Barak Obama dễ đoán, dễ chơi và cũng dễ bị ăn hiếp bởi giới quan chức Việt
Nam chói sáng tính khôn lỏi và các thủ đoạn tiểu xảo.
Đến
lúc này, tại sao lại không nghĩ rằng chuyến công du Việt Nam của Bộ Trưởng Quốc
Phòng Hoa Kỳ Mark Esper là một phép thử mà Tổng Thống Trump, với tính cách thật
thực dụng của ông ta, đặt ra đối với Hà Nội?
Rằng
trước khi có một cuộc gặp chính thức ở cấp nguyên thủ quốc gia ở Washington và
đề cập đến điều gì đó na ná như “quan hệ đối tác chiến lược,” Hà Nội cần phải
chứng tỏ dứt khoát quan điểm về từ bỏ “Ba Không” và thói đu dây, về tính thực
chất phải có chứ không thể mãi mãi chỉ là phép tô hồng nếu “quan hệ đối tác chiến
lược Việt – Mỹ” được chính thức hình thành, và cách quan hệ cùng cách chơi với
Mỹ. Đó có thể là những điều kiện cứng rắn của Trump.
Có
lẽ đã có những hứa hẹn ngon ngọt với Mark Esper, như thường thấy trước đây của
Bộ Quốc Phòng Việt Nam để bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ chấp nhận đến Hà Nội, để
rồi chẳng nhận được cái gì thực chất ngoài những lời hứa ngon ngọt vẫn tuôn ra
trên vành môi thơn thớt của bộ mặt thỗn thện nung núc mỡ màng.
Tuy
nhiên trời chưa thể sáng nếu chưa có nắng. Tất cả vẫn còn ở phía trước. Rồi đây
người ta sẽ biết rõ về Nguyễn Phú Trọng và thể chế chính trị uốn éo của ông ta
có còn ôm giữ thói đầu môi chót lưỡi hay là không. (Phạm Chí Dũng)
No comments:
Post a Comment