Lý Thái Hùng
Gửi cho BBC Việt ngữ từ Hoa Kỳ
Cập nhật: 15:01 GMT -
thứ tư, 26 tháng 2, 2014
Trong bài viết mới đây của Tiến sĩ Trần Công Trục cho
rằng “Công hàm 1958 do Thủ tướng Phạm Văn
Đồng ký gửi Trung Quốc chỉ ủng hộ và thừa nhận phạm vi lãnh hải 12 hải lý mà
Trung Quốc tuyên bố, không có chữ nào nhắc đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam mà Bắc Kinh yêu sách chủ quyền với tên gọi Tây Sa, Nam Sa.”
Do đó mà việc kêu gọi hủy bỏ
công hàm này là mắc lừa chủ trương hiện nay của Bắc Kinh.
Tiến Sĩ Trần Công Trục đã chỉ
nói một phần ý nghĩa của Công hàm 1958, và là phần phụ, phần bao quát không bao
gồm ý nghĩa và hệ quả đích thực của Công hàm này.
Đó là lý do vì sao đến giờ này
Việt Nam vẫn chưa có những biện pháp cứng rắn hơn đối với những hành vi xâm
phạm ngày một gia tăng của Bắc Kinh trên Biển Đông.
Kẽ hở của Công hàm 1958
Đúng là Công hàm 1958 của Thủ
tướng Phạm Văn Đồng không đề cập gì đến Hoàng Sa hay Trường Sa.
Nhưng Công hàm đã viết:
"Chính
phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày
4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận
của Trung Quốc."
Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đã viết:
"Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo
ngoài khơi, Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa,
quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc
Trung Quốc."
Dù giải thích thế nào đi nữa,
Công hàm 1958 vẫn đã thừa nhận chủ quyền Trung Quốc trên Biển Đông bao gồm luôn
quần đảo Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam, và cho Trung Quốc lý cớ để cột
công hàm này vào nền tảng biện minh cho chủ trương xâm lược của họ hiện nay.
Nói cách khác, cái “thòng lọng
pháp lý của Bắc Kinh đang giăng sẵn” như mô tả của Tiến sĩ Trần Công Trục chỉ
có thể có được từ chính sợi dây thừng mà Công hàm 1958 đã cung cấp.
Trong bài viết, Tiến sĩ Trần Công Trục cũng đã đề cập: “Việt Nam Cộng Hòa là một thực
thể chính trị, một chủ thể trong quan hệ quốc tế được quốc tế công nhận. Vì vậy,
Việt Nam Cộng Hòa là đại diện cho nhà nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam để quản
lý và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam.”
Tôi tán đồng cách nhìn này và
vì thế Tuyên bố của Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 4-2-1974 là một văn kiện quan
trọng để cho nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay khai dụng trong việc tranh luận
với Trung Quốc về vấn để chủ quyền biển đảo.
Chính tư thế pháp lý của VNCH
năm 1974 đã nói lên giá trị của Tuyên Bố 4-2-1974 và do đó, trực tiếp hủy giá
trị của Công hàm 1958 trong “chiêu bài lập lờ đánh lận con đen cho tham vọng
bành trướng” của Bắc Kinh.
Công hàm này chỉ mang tính
ngoại giao trong bối cảnh của giai đoạn 1958 và càng không phải là một bản cam
kết giữa hai quốc gia.
Tiến sĩ Trần Công Trục đã nhầm
lẫn giữa một “diplomatic note” với một “bilateral agreement” khi viết rằng: “theo luật pháp quốc tế nếu như một chính thể
đã chính thức công nhận một vấn đề thì không thể hủy bỏ đơn phương một cách đơn
giản như vậy là xong. Tiền hậu bất nhất là điều tối kỵ khi đưa một vấn đề tranh
chấp ra các cơ quan tài phán quốc tế”.
Hơn thế nữa, ngay cả một cam
kết giữa hai quốc gia cũng chỉ được tôn trọng trong bối cảnh ngày nào nó còn
bảo vệ được quyền lợi của cả hai quốc gia.
Ngày nào còn tránh né việc công khai xác định với Trung Quốc sự sai trái
về pháp lý và vô hiệu lực của Công hàm Phạm Văn Đồng, thì ngày đó nhà quyền
cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục bị lúng túng trong sự giải thích lòng vòng,
vừa khó thuyết phục được công luận vừa cho Trung Quốc thấy thế yếu của Việt
Nam.
Mặt trận pháp lý
Trong nhiều thập niên vừa qua,
nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã chọn phương thức "ngoại giao” để
giải quyết các tranh chấp biển đảo đối với Trung Quốc. Đến nay thì phương án
này không những không hiệu quả mà còn gây nguy hiểm cho Việt Nam khi thời gian
kéo dài chỉ càng củng cố và có lợi cho các ý đồ bành trướng tiếp của Trung
Quốc.
Khi Trung Quốc ỷ thế lớn và tìm
cách gây chia rẽ nội bộ các nước trong khối ASEAN thì việc ASEAN có thông qua
Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) với Trung Quốc hay không cũng sẽ chỉ mang
giá trị hình thức.
Đã đến lúc Việt
Nam cần mạnh dạn tiến hành phương án đấu tranh pháp lý, tức kiện Trung Quốc ra
tòa án trọng tài Liên Hiệp Quốc như Philippines đã làm vì có khá nhiều điểm
tương đồng.
Mặc dù Philippines không kiện
Trung Quốc về chủ quyền biển đảo, mà kiện Trung Quốc "áp dụng và giải
thích sai Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS)” như Tiến sĩ Trần
Công Trục phân tích, thì đó ít ra cũng là điểm khởi đầu cần thiết trong việc
dùng công pháp quốc tế buộc Trung Quốc phải “nói chuyện”, chứ không thể để họ
cố tình tránh né, phớt lờ như hiện nay.
Đương nhiên tiến hành một vụ
kiện cần phải nghiên cứu thật kỹ, nhưng không vì thế mà chần chừ quá lâu và
nuôi hy vọng quá nhiều vào việc ASEAN và Trung Quốc sẽ tiến hành tham vấn về Bộ
quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) như Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh tuyên bố hôm
đầu năm 2014.
Sức mạnh toàn dân
Vận dụng bằng ngoại giao hay
pháp lý để lấy lại chủ quyền biển đảo đã bị xâm chiếm là những phương thức cần
thiết nhưng chắc chắn là chưa đủ và khiếm diện.
So với nhiều quốc gia trong khu
vực, Việt Nam có ít nhất 138 chiến sĩ từ hai thể chế chính trị khác nhau đã hy
sinh trong cuộc chiến chống Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và
Trường Sa năm 1988.
Nếu coi nỗ lực bảo vệ và lấy
lại chủ quyền các phần lãnh thổ, lãnh hải của cha ông là mục tiêu tối hậu, Việt
Nam cần vượt lên trên mọi khuynh hướng chính trị, mọi nhu cầu ngắn hạn của
những chính phủ đang cầm quyền.
Nhưng để thực hiện được ước
muốn tối thượng đó thì phải có nền tảng tối thiểu.
Nền tảng đó chính là sức mạnh
của Toàn dân.
Lịch sử Việt đã chứng minh quá
nhiều lần rằng không có cách nào khác.
Vì vậy, nếu thực tâm muốn bảo vệ chủ quyền đất nước dựa
trên nền tảng sức mạnh toàn dân, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam cần phải:
Thả ngay những
người yêu nước đang bị giam giữ và tôn trọng quyền bày tỏ lòng yêu nước của
người dân;
Thực hiện tinh
thần Hội nghị Diên Hồng bằng cách chấm dứt ngay chính sách độc quyền yêu nước;
Dẹp bỏ thái độ
thù nghịch đối với những tiếng nói xây dựng, ôn hòa vì quyền lợi của Tổ quốc.
Nói tóm lại, khi một phần lãnh
thổ, hải đảo đã bị nước ngoài xâm chiếm, trách nhiệm giành lại chủ quyền không
thể ủy thác vào chính quyền hay bất cứ một tập thể nào mà phải dựa trên nền
tảng toàn dân.
Bài viết thê ̉hiện quan
điểm riêng của ông Lý Thái Hùng, một lãnh đạo của đảng chính trị
Việt Tân ở Hoa Kỳ.
-------------------------------------
Bài liên
quan :
Mon, 10/02/2014 - 04:57
Vì
sao cần bàn về tính quốc gia của VNCH và tính chất pháp lý của việc thống nhất
đất nước Sun, 09/02/2014 - 19:16
Sat, 25/01/2014 - 18:38
No comments:
Post a Comment