Tống Văn
Công
Viet Studies 26-2-2014
Gợi
ý
Những
nội dung cần kiểm điểm đối với đảng viên
1-
Nội dung sai phạm:
Từ năm 2009 đến 01/2013 đảng viên Tống Văn Công đã
có nhiều bài viết trên mạng internet, được các trang mạng xã hội tán phát, nội
dung chủ yếu là phủ nhận quan điểm, đường lối của đảng về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, phân tích có ý xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, ủng hộ và cổ xúy
“đa nguyên chính trị, đa đảng, Nhà nước tam quyền phân lập, xã hội dân sự dân
chủ, tự do báo chí theo phương Tây …”
- Sau khi phát hiện sai phạm, Chi bộ, đảng ủy và Tổ
công tác của ban Thường vụ Quận ủy đã tổ chức trên 15 cuộc họp, tiếp xúc, giáo
dục, đấu tranh, thuyết phục đảng viên Tống Văn Công, tranh thủ ý kiến của các
đảng viên lớn tuổi quen biết để tác động, thuyết phục.Tuy nhiên, sau khi hứa,
cam kết với cấp ủy các cấp, đảng viên Tống Văn Công vẫn tiếp tục có các bài
viết nội dung trái với quan điểm đường lối của đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước hiện nay, cụ thể từ tháng 1/2013 đến tháng 1/2014, đảng viên Tống Văn
Công tiếp tục viết bài “Kính
gởi Hội nghị Trung ương 8: đất nước đòi hỏi phải đổi mới chính trị”,
đăng trên mạng viet-studies ngày 30/9/2013, bài “Kìa cái
tất yếu đang lừng lững đi tới”, đăng trên Diễn đàn xã hội dân sự
18/12/2013, đặc biệt tham gia cùng giáo sư Tương Lai, luật sư Lê đức Tiết viết
một số bài có nội dung phản động trong tác phẩm Thực tiễn Thanh Văn và tầm
nhìn đoàn kết do trung tâm Sena phát hành trái phép tháng 1/2014.
Như vậy những quan điểm sai trái nêu trên là biểu
hiện rất rõ đảng viên Tống Văn Công đã suy thoái tư tưởng chính trị “tự diễn
biến”, ”tự chuyển hóa” nói và làm trái với những điều cơ bản của đảng về quan
điểm, đường lối và hoàn toàn mất niềm tin đối với đảng và chủ nghĩa xã hội, vi
phạm nghiêm trọng điều 1, điều 2 Quy định số 47-QD/TW ngày 01/11/2011 của Bộ
Chính trị về những điều đảng viên không được làm, không còn đủ tư cách đảng
viên.
2-
Căn cứ để xem xét, xử lý kỷ luật đảng viên Tống Văn Công
- Vi phạm điều lệ đảng tại điều 1, điều 2
- Vi phạm quy định 47-QD/TW, ngày 1 tháng 1 năm 2011
của Ban chấp hành trung ương về những điều đảng viên không được làm tại điều 1,
điều 2.
- Căn cứ khoản 3, điều 6, quy định số 181-QD/TW ngày
30/3/2013 của Bộ Chính trị về xử lý đảng viên: những trường hợp vi phạm quy
định tại khoản 1, khoản 2. Điều này gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc vi phạm
một trong các trường hợp sau thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ:
a/ Cố ý nói, viết có nội dung xuyên tạc lịch sử,
xuyên tạc sự thật, phủ nhận vai trò lãnh đạo và thành quả cách mạng của đảng và
nhân dân.
b/ Có quan điểm ủng hộ hay tán thành đa nguyên chính
trị, đa đảng, công khai phê phán bác bỏ chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ chí
Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng.
c/ Xuyên tạc đường lối, chính sách của đảng, Nhà
nước, bôi nhọ lãnh tụ, lãnh đạo đảng, Nhà nước, truyền thống của dân tộc, của
đảng và Nhà nước.
---------------------------------------
BẢN KIỂM ĐIỂM KHÔNG ĐẠT YÊU CẦU
TỐNG
VĂN CÔNG
Ngày 14-2- 2014, tôi được Đảng ủy mời họp tại văn
phòng đảng ủy phường Tân Kiểng, quận 7, TP HCM, để nghe chỉ
đạo tự kiểm điểm về những khuyết điểm của mình. Do không được trao
văn bản, tôi đã ghi chép mấy điểm chính: Từ năm 2009 đã viết hơn 30 bài trái quan
điểm của Đảng, đưa lên mạng gây tác động xấu; Có 15 cuộc kiểm điểm góp ý mà
không sửa chữa. Có những bài chống Trung Quốc, gây chia rẽ hai
Đảng, hai nước xã hội chủ nghĩa; Xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh; Tự diễn biến
hòa bình suy thoái chính trị: Cổ vũ tam quyền phân lập, đa nguyên, đa đảng, vi
phạm 19 điều cấm đảng viên không được làm theo Quyết định 47- QĐ/TW của Bộ
Chính trị. Đồng chí Công phải viết bản tự kiểm điểm và tự nhận một hình thức kỷ
luật của Đảng.
♦
VÌ
SAO TÔI VIẾT BÀI “ĐỔI MỚI ĐẢNG
TRÁNH NGUY CƠ SỤP ĐỔ” ?
Tháng 9 năm 2009 tôi viết bài trên với mở đầu
bằng câu “Tổ quốc Việt Nam đang đứng trước hai hiểm họa: giặc ngoại xâm và giặc
nội xâm”.
Từ 2005, Trung Quốc bắt đầu bắn giết đuổi bắt
ngư dân đòi tiền chuộc. Ngày 9-1-2005, chúng bắn chết 9 ngư dân Hoằng Hóa,
Thanh Hóa, bắn bị thương 9 người, bắt sống 9 người đòi tiền chuộc mỗi người hơn
100 triệu đồng. Các hãng tin nước ngoài đưa tin, ta im lặng. Sau 4 ngày, người
phát ngôn Trung Quốc Khổng Tuyền tuyên bố “Qua 55 năm quan hệ ngoại giao hai
nước đã bước qua giai đoạn phát triển mới vô cùng tốt đẹp”. Tiếp theo Bộ Quốc
phòng cử đoàn cán bộ quân sự cao cấp sang Trung Quốc học tập chính trị. Nhưng
không vì thế mà Trung quốc giảm bớt các hành động bắn giết, đuổi bắt ngư dân.
Tháng 6 năm ngoái (2013), trong khi người dân bức xúc vì liên tiếp 2 tàu cá
Quảng Ngãi, bị bắn chìm, một ngư dân chết thỉ báo chí đưa tin ngày 6-6-2013, Bộ
Quốc phòng cử 22 cán bộ cao cấp sang Trung Quốc học chính trị, đây là đợt thứ
6.
Năm 2009 còn có chuyện mở đầu thực hiện với
Trung Quốc khai thác bô xit Tây Nguyên. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi liên tiếp
3 thư yêu cầu ngưng dự án này với 2 lý do: Tây nguyên là địa bàn an ninh quốc
phòng, không nên đưa nước ngoài khai thác; Hai là không có hiệu quả kinh tế.
Các nhà khoa học tổ chức nhiều cuộc hội thảo và kiến nghị giống như Đại tướng,
có nêu thêm cảnh báo sẽ có hàng vạn tấn bùn đỏ trên cao hơn 1000 mét có thể đổ
ụp xuống làm miền Đông và Sài Gòn chết khát. Nhưng Đảng, Nhà nước ta vẫn kiên
trì thực hiện thông cáo chung đã được TBT Nông Đức Mạnh cam kết với Đảng bạn.
Năm 2013, nhà máy Tân Rai đã cho ra sản phẩm. Trung Quốc mua dưới giá thành.
Tính ra mỗi năm lỗ khoảng 100 triệu đô la. Những vị có trách nhiệm xin miễn giảm
thuế và cam kết từ năm 2020 sẽ lãi to!
Về hiểm họa nội xâm: Tham nhũng tỏ ra bất trị,
cứ tăng nhanh từng năm, tháng. Tại Hội nghị Trung ương 3, năm 2006, Tổng bí thư
Nông Đức Mạnh phát biểu “Tham nhũng là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự
sống còn của chế độ”. Là một đảng viên sao có thể vô cảm trước “sự sống còn”
ghê gớm ấy? Tuy nhiên dù rất nhiều cảnh báo góp ý, 6 năm sau, Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng trong bài diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương 4 sáng ngày 26
tháng 12 năm 2011 có đoạn như sau: “Đặc biệt có một câu hỏi lớn rất day dứt,
trăn trở lâu nay, cần được trả lời cặn kẽ là: Vì sao công tác xây dựng Đảng
được Trung ương rất coi trọng, đã có nhiều nghị quyết chỉ thị rất đúng, rất
hay, nhiều cuộc vận động sâu rộng, nhưng kết quả vẫn chưa đạt yêu cầu? Tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng
phí, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả ở cấp cao,
chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng có chiều hướng nghiêm trọng hơn, làm
xói mòn lòng tin đối với Đảng? Vướng mắc chính là chỗ nào?”
Như vậy là dù 30 năm với rất nhiều nghị quyết,
chỉ thị, tham nhũng vẫn không lùi nhưng Tổng bí thư vẫn cho rằng Nghị quyết,
chỉ thị rất đúng!
Sau một năm thi hành Nghị quyết Trung ương 4, Tổ
chức Minh Bạch thế giới xếp hạng Việt Nam tụt 11 bậc về kết quả chống tham
nhũng. Nhân loại tiến bộ đã rút ra bài học thực tế rất ngắn gọn về tham nhũng
như sau: Tham nhũng là do Nhà cầm quyền độc tài, quyền quyết định của viên chức
quá rộng, thiếu công khai minh bạch và quyền tư pháp không độc lập, do đó không
kiểm soát được quyền lực.
Lẽ ra những người lãnh đạo của Đảng cầm quyền
sau hàng chục năm với nhiều nghị quyết vẫn không chống được tham nhũng thì phải
hiểu rằng các nghị quyết ấy sai, hoặc chưa đầy đủ, phải học cách làm của những
quốc gia chống tham nhũng thành công đặt ra cho mình những câu hỏỉ từ bài học
của nhân loại.
Quan liêu, độc quyền đẻ ra tham nhũng, làm suy
thoái Đảng cầm quyền, gây ra khủng hoảng chính trị. Lịch sử 84 năm của Đảng
cộng sản Việt Nam chưa bao giờ có chuyện Tổng bí thư thay mặt Bộ chính trị đề
cử 2 người vào Bộ Chính trị mà bị bác bỏ cả hai và bầu 2 người khác. Chưa bao
giờ có tình trạng các nhà lãnh đạo công kích nhau trước nhân dân. Chưa bao giờ
trong một cuộc họp báo công khai mà ông nói gà, bà nói vịt. (Họp báo đầu năm
ngày 7-2, Đinh Thế Huynh nói, báo chí thông tin, bình luận phải có lương tâm và
trách nhiệm tạo ra sự đồng thuận, không được phép nói trái làm phân tâm các véc
tơ phát triển. Sau đó, phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói: “Tạo đồng thuận không phải
là khen xuôi chiều mà phải phát hiện phê phán với tinh thần xây dựng”). Chưa
bao giờ có tình trạng nhiều đảng viên tuyên bố bỏ Đảng như bây giờ!
Từ khủng hoảng chính trị đã gây ra khủng hoảng
toàn diện cho đất nước. Chỉ xin nêu sơ lược vài nét:
+ Nền kinh tế được hi vọng sẽ sớm xuất
hiện “con rồng Việt Nam” đã lâm vào khủng hoảng 2 năm trước khủng hoảng của thế
giới, đến nay theo Viện trưởng quản lý kinh tế Trần Đình Thiên, “kinh tế thế
giới đã bước vào quỹ đạo phục hồi, nhưng Việt Nam thì còn ở dưới đáy, bởi nợ
xấu, sở hữu chéo, đề án tái cơ cấu tiếp tục nằm trên giấy. “ (Tại Hội thảo mùa
Thu ở Huế)
+ Nông dân kéo đi khiếu kiện vượt cấp hàng
chục năm, tới lúc dùng súng chống cưỡng chế. Nguyên chủ tịch tỉnh lúa An Giang
Nguyễn Minh Nhị nói: “Bao nhiêu năm theo Đảng giành độc lập, có độc lập rồi thì
mất quyền sở hữu ruộng đất, dắt díu nhau lên các khu công nghiệp tìm sống với
đồng lương bèo bọt” (báo Nông nghiệp Việt Nam Têt Tân Mão).
+ Giai cấp công nhân được mệnh danh là
giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua Đảng của mình. Nhưng họ đang trong tình
trạng cùng khổ chưa từng có. Giống như giai cấp công nhân ở thế kỷ 19 mà Marx –
Engels đã mô tả, nhưng còn khổ hơn vì không được phép đình công. Theo Tổng Liên
đoàn Lao động lương tối thiểu của họ chỉ đủ cho 60% mức sống tối thiểu, có 94%
phải tăng ca, tăng giờ. Họ đã tự tổ chức hơn 5000 cuộc đình công bị coi là bất
hợp pháp vì không được công đoàn lãnh đạo! Trước đây công nhân còn cử ban đại
diện ra đối thoại với chủ, nhưng từ 2013 không còn ai dám đứng ra làm đại diện
nữa, vì sau khi tình hình ổn định thì người đại diện bị chủ sa thải, hoặc bị
bắt về tội kích động đình công.
+ Năm 2013 Công ty tư vấn tài sản WealthX và
Ngân hàng Thụy Sĩ UBS thông báo: “Mặc cho kinh tế khó khăn, số người “siêu
giàu” ở Việt Nam (có tài sản 30 triệu USD) đã tăng 15%, trong khi đó có 8,1
triệu người nghèo đói”. Có thể nêu tên 2 người nghèo phải tìm cái chết đã được
đăng báo là: Chị Lê thị Ngọc Nhãn ở Cà Mau trước khi tự tử đã gửi thư cho Trung
tá Diện “Sau khi cháu chết rồi xin chú giúp các con của cháu được vào trại mồ
côi. Cháu đội ơn chú đời đời”. Chị Nguyễn thị Mỹ Nhân cũng ở Cà Mau tự tử để
được công nhận diện nghèo, đã gửi thư cho Đảng ủy xã: “Xin thấu hiểu hoàn cảnh
không lối ra của gia đình tôi, sau khi tôi chết, đồng ý cấp sổ nghèo cho chồng
con tôi được sống.”
+ Đạo đức xã hội băng hoại chưa từng thấy. Một
dân tộc sống theo phương châm “thương người như thể thương thân”, những năm
kháng chiến nhà nhà đêm không gài cửa, ra ngõ gặp anh hùng. Sau 38 năm sống
trong chế độ xã hội chủ nghĩa sao biến đổi ghê gớm như vậy? Con đánh giết cha
mẹ, cháu đánh giết ông bà, vợ đốt chồng. Thanh niên ném đá lên ô tô tàu hỏa làm
vui. Thợ vá xe rắc đinh bẫy người đi mô tô. Đi lao động nước ngoài thì trộm cắp
và bỏ trốn để sống bất hợp pháp. Các báo mới đưa tin thày trò đánh nhau giữa
lớp. Chuyện thầy gạ tình cho điểm, ép mua dâm học trò vị thành niên liên tục
xảy ra. Điều tra của Trung tâm xã hội học cho hay: Học sinh cấp 1 có tỉ lệ nói
dối 22%, cấp 2 tăng lên 50%, cấp 3 64%, đại học 80 %. Chúng ta sắp có lớp trí
thức mới nói dối nhất thế giới. Nguyên Bộ trưởng giáo dục Nguyễn Thị Bình nói
“Giáo dục Việt Nam kém hơn cả Campuchia, Lào” (Trên báo Giáo Dục).
Cũng chính vì không chịu đổi mới chính
trị, khư khư ý thức hệ giáo điều mà không có một sách lược đối ngoại đúng đắn
nhất là đối với Trung Quốc, bị họ lòe bịp “16 chữ vàng” và “4 tốt”. Trung Quốc
chưa bao giờ là nước xã hội chủ nghĩa, và ngày càng tỏ ra là một nước phát xít.
Sau giải phóng họ bắt đầu thôn tính Tây Tạng, Tân Cương, đàn áp, không ghê tay,
sau đó tấn công biên giới Ấn Độ, Liên Xô… Họ dùng 2 thủ đoạn xảo trá để buộc
chúng ta khuất phục: Một là kể công ơn đã giúp ta; Hai là đề cao cùng chung ý
thức hệ xã hội chủ nghĩa, phải cùng “chống âm mưu diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch phương Tây. Họ khuyên ta cử cán bộ sang nghe họ giảng dạy về
bảo đảm an ninh chính trị, chống âm mưu diễn biến hòa bình và ta đã làm theo.
Nên biết, ngày xưa họ giúp ta chỉ vì sách
lược dùng máu Việt Nam để mặc cả với Mỹ và phương Tây và để có điều kiện thao
túng ta. Năm 1954, họ ép ta nhận sự chia đôi đất nước. Năm 1972 họ bắt tay
Nixon bán đứng ta, để chiếm trọn Hoàng Sa. Năm 1975 họ nhờ tướng Pháp Vanuxem
khuyên Dương Văn Minh lên tiếng cầu cứu, Bắc Kinh sẽ cứu Việt Nam Cộng hòa, bị
tướng Minh từ chối. Năm 1979, họ xui Pôn Pốt đánh ta, rồi cho rằng ta bị kẹt ở
Campuchia, họ đưa 600.000 quân xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc, giết hàng
vạn dân thường, đập phá từng cái nồi, hãm hiếp, giết chết đàn bà con trẻ ném
xuống giếng. Bị thua đau, họ rút quân, nhưng vẫn chiếm giữ nhiều vùng núi hiểm
trở. Năm 1988 họ tấn công đảo Gạc Ma và các đảo ở Trường Sa, xả súng giết 74
hải quân ta. Mỗi dịp kỷ niệm ngày hải quân họ đưa phim này ra chiếu. Hiện nay
họ vẫn tuyên bố toàn bộ Trường Sa và 80% Biển Đông là của họ, việc đánh chiếm
chỉ là chờ thời cơ.
Nhiều đảng viên cộng sản dẫn đầu biểu tình phản đối
tội ác của chúng đã bị đuổi bắt. Nhà văn Nguyên Ngọc đi biểu tình phản đối
Trung Quốc gây hấn đã bị Đài truyền hình Hà Nội gọi là bọn phản động, ông kiện,
tòa trả lại hồ sơ không xử. Tôi và đồng chí giáo sư Tương Lai trên đường đi dự
cuộc mít tinh phản đối Trung Quốc xâm lược tại Nhà hát Thành phố (ngày hôm
trước đã báo với ông Lê Minh Trí Phó chủ tịch UBND TP HCM) đã bị hơn chục xe
cảnh sát bao vây buộc phải vào đồn.
Quá bức xúc trước tình trạng khốn khổ của ngư dân,
anh André Menras tên Việt Nam là Hồ Cương Quyết, người từng treo cờ Mặt trận
giải phóng trước Nghị viện Sài Gòn, bị Chính quyền Sài Gòn bỏ tù, đã xin Chủ
tịch Nguyễn Minh Triết cho phép làm bộ phim “Hoàng Sa- Việt Nam, nỗi đau mất
mát”. Anh bỏ tiền dành dụm nghỉ hưu đem làm phim. Phim làm xong được duyệt,
nhưng cho tới nay vẫn cấm chiếu. Một lần họp mặt với bạn tù thời chống Mỹ ông
đem phim ra chiếu đã bị cảnh sát giải tán. Hồ Cương Quyết búc xúc kêu ”Bác Hồ
ơi, Bác sống lại mà coi!”
Nhân đây tôi muốn nhắc lại trong cuộc kiểm điểm tôi
về bài viết ”Đổi
mới Đảng tránh nguy cơ sụp đổ”, có chi ủy viên đã nói ”Hoàng Sa, Trường Sa
là bãi hoang chim ỉa. Ta nói của ta. Trung Quốc nói của Trung Quốc. Đồng chí
Công nói vậy là gây chia rẻ hai Đảng và hai nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Lãnh
đạo các cấp ủy không ai có ý kiến gì. Tôi không chê trách các đồng chí mà chỉ
băn khoăn lo lắng, vì sao Đảng lãnh đạo không quan tâm giáo dục cho đảng viên
và nhân dân hiểu lời của đức Trần Nhân Tông “Các ngươi phải nhớ lời ta dặn: Một
tấc đất của tiền nhân để lại cũng không được để lọt vào tay giặc”. Tháng trước,
Thủ tướng chỉ đạo phải đưa Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa, báo vừa đăng
lên đã bị gở xuống. Quan hệ với Trung Quốc gây thiệt hại về phía Việt Nam chưa
thể lường hết. Qua 20 năm, FDI từ Trung Quốc chỉ chiếm 1,5% nhưng Trung Quốc
lại trúng thầu hơn 90% các công trình điện, khai khoáng, luyện kim, hóa chất.
Họ đưa cho ta thiết bị lỗi thời. Mấy năm qua ngành mía đường cứ kêu bị đường
nhập lậu đánh bại là do thiết bị Trung Quốc cũ kĩ, tiêu hao năng lượng, lao
động nhiều, giá thành cao, chất lượng kém. Sau đường là xi măng và nhiều thứ
khác. Các công trình trúng thầu, họ đưa lao động cơ bắp người Trung Quốc sang
xây nhà ở, lập nhà hàng, lấy vợ sinh con, mua đất đứng tên vợ. Các làng Trung
Quốc hình thành khắp nơi từ Mông Cái, đến Hải Phòng, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tỉnh, Khánh Hòa…. Thương lái Trung Quốc gây khó từ Lạng Sơn tới tận Cà
Mau, họ hợp đồng mua rể hồi, móng trâu, khoai lang, đỉa, ốc bưu vàng, lá vải…
ít lâu thì họ biến mất.
Chúng ta đã lập quan hệ hữu nghị hợp
tác với những “kẻ thù cũ” Pháp, Mỹ, đặc biệt đã đưa Tổng thống Pháp Mitterand
đi thăm chiến trường xưa Điện Biên Phủ nơi họ bị bắt sống 17.000 quân nhục nhã.
Suốt hơn nửa thế kỷ chúng ta vẫn long trọng tổ chức những ngày kỷ niệm chiến
thắng. Thậm chí hàng ngày báo chí, đài tuyền hình phát thanh còn ra rả chửi
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Nhưng không vì thế mà họ gây khó khăn cho ta, thậm
chí họ vẫn viện trợ, tạo điều kiện cho ta phát triển. Cuộc chiến chống xâm lược
biên giới phía Bắc từng được báo Nhân Dân bình luận với tựa đề “Chiến công hiển
hách ghi vào lịch sử chống xâm lược của dân tộc”, thế nhưng sau khi lập lại
quan hệ bình thường với Trung Quốc thì dường như bị buộc phải quên chiến công
hiển hách ấy đi? Tại sao với Trung Quốc chúng ta không dám đòi bình đẳng như
các quốc gia khác? Rất tệ hại là chủ trương đục bỏ bia chiến thắng ở Cầu Chánh
Khê, bôi xóa tên liệt sĩ Hoàng thị Hồng Chiêm trên tượng đài của chị và đổi tên
trường trung học mang tên chị thành trường Bình Ngọc (thuộc Mông Cái). Ở tận
núi Quyết, thành phố Vinh Nghệ An, người ta còn đập bỏ tấm bia của Chủ tịch Hồ
Chí Minh ca ngợi Quang Trung vì có hai chữ “giặc tầu”. Bài thơ như sau:
“Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,
“Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu.
“Ông đà chí cả, mưu cao,
“ Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
“Cho nên Tàu dẫu làm hung,
“Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà”.
Cách xử lý như trên cùng với việc cho cảnh sát đuổi
bắt, ném lên xe những đảng viên và nhân dân đi biểu tình mỗi lần Trung Quốc gây
hấn vô lý, có phải là sách lược sáng suốt hay không? Một Đảng trong sạch
không tham nhũng, tôn trọng và hết lòng phục vụ nhân dân, đồng thời không khuất
phục trước kẻ thù hung bạo là hai điều kiện quyết định để có thể đứng vững và
tồn tại.
Tổng bí thư Lê Duẩn trong bài nói
sau ngày chiến thắng biên giới phía Bắc năm 1979 có đại ý: Trung Quốc từ lâu có
âm mưu bành trướng xuống phía Nam. Khi chúng có điều kiện thực hiện thì đầu
tiên sẽ là xâm lược Việt Nam. Muốn không bị xâm lược chúng ta phải mạnh lên, cả
nước đoàn kết một lòng. Chúng ta không thù hằn Trung Quốc, coi nhân dân Trung
Quốc là anh em. Bọn phản động cầm quyền chỉ là một bè lũ. Ý kiến của ông vẫn
còn nguyên giá trị thời sự!
Nguyên nhân của mọi nguyên nhân
gây khủng hoảng và hèn yếu trước ngoại bang là do Đảng không đổi mới chính trị
tương ứng với đổi mới kinh tế. Thế nào là đổi mới chính trị? Nội dung chủ yếu
đã có trong hai câu mở đầu Tuyên ngôn độc lập năm 1945 trích từ Tuyên ngôn độc
lập 1776 của Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và Tuyên ngôn nhân quyền
1791 của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn
được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Hơn 60 năm qua Liên Hiệp Quốc đã lần lượt ban hành
nhiều Tuyên ngôn, Công ước cụ thể hóa các quyền tự do của con người. Nhà nước
Việt Nam cũng đã ký cam kêt thực hiện nhiều công ước quan trọng.
Các quyền tự do gồm có: Quyền sở hữu tài sản riêng,
quyền tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo, tự do ngôn luận, báo chí, tự do
hội họp và lập hội, tự do đi lại và cư trú, quyền tham gia quản lý đất nước
trực tiếp, hoặc thông qua lựa chọn người đại diện bằng cuộc tự do bầu cử thường
kỳ, chân thực, bình đẳng, phổ thông đầu phiếu và bỏ phiếu kín. Các quyền tự do
nói trên đều được ghi vào Hiến pháp, nhưng suốt 70 năm chưa được thực hiện hoặc
thực hiện một cách hình thức. Cho nên nhân dân có câu “Đảng cử dân bầu”. Quyền
lập hội chỉ là vào các hội, đoàn do Đảng lập ra. Quyền tự do báo chí là viết
báo của Đảng, nhà nước. Hồ Chủ tịch từng nói, báo nhà nước lập ra không phải là
báo chí tự do (sách Hồ Chủ tịch với báo chí, do Hội nhà báo TP HCM xuất bản
1980, trang 9). Đó là trái với các Công ước mà nhà nước ta đã ký kết.
Để các quyền tự do của con người trở thành hiện thực
thì phải có một chế độ dân chủ để thực thi. Dân chủ là thể chế hóa các quyền tự
do của con người bằng một bản hiến pháp đảm bảo pháp quyền, thể hiện trung thực
ý chí chính trị của nhân dân.Theo bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền đã nói
ở trên, điêù 16 có nội dung như sau: ”Một xã hội mà trong đó các quyền con
người không được đảm bảo, nguyên tắc tam quyền phân lập không được tôn trọng,
thì hiến pháp có được ban hành hay không cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Tức là phải
có nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập thì mới có thể đảm bảo quyền tự
do của con người. ( Nga và các nước Đông Âu ngày nay đều ghi “tam quyền phân
lập” trong hiến pháp của họ). Thông điệp đầu năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng nói: “Dân chủ và nhà nước pháp quyền là cặp song sinh trong thể chế chính
trị hiện đại” là có ý nghĩa như vậy. Nhà nước dân chủ phải là nhà nước pháp
quyền với tam quyền phân lập. Nhà nước dân chủ phải tôn trọng đời sống của một
xã hội dân sự, nội dung phong phú của nó đã được ghi đầy đủ trong “Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” mà nhà nước Việt Nam đã ký cam kết
thực hiện từ ngày 24 -9-1982, nhưng sau 30 năm hầu như chưa thực hiện được gì
đáng kể!
TẠI
SAO TỰ DIỄN BIẾN ?
Cuộc sống luôn luôn biến động. Cái hôm qua cho là
đúng hôm nay không còn thích hợp. Cho nên chống “tự diễn biến”, chống “diễn
biến hòa bình” tức là chống lại sự thay đổi, chống tinh thần sáng tạo tìm những
điều thích hợp trong hoàn cảnh mới, chống trào lưu tiến bộ, cố ôm giữ mớ giáo
điều mà ngay những nhà mác xít trước đây cũng không chấp nhận. Phép biện chứng
cho rằng, mọi sự vật đều tiệm tiến dần dần đi tới đột biến. Tôi xin ôn lại về
sự “tự diễn biến” của chính hai ông tổ khai sáng chủ nghĩa cộng sản là Karl
Marx và F. Engels.
Năm 1848 Marx và Engels công bố Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản, cơ sở lý luận của Quốc tế cộng sản thứ nhất. Trong đó có những luận
điểm về đấu tranh giai cấp, cho rằng giai cấp tư sản tạo ra những người đào
huyệt chôn chính nó, cách mạng vô sản sẽ lật đổ nhà nước tư sản, thực hiện
chuyên chính vô sản, xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ thị trường, xóa bỏ cả tôn giáo… Từ
thập niên 60 thế kỷ 19 hai ông bắt đầu thấy có sự biến đổi trong chủ nghĩa tư
bản và chủ trương đấu tranh hợp pháp, không làm cách mạng để lật đổ nhà nước tư
bản. Sau khủng hoảng kinh tế năm 1866, Các công ty cổ phần và các ngân hàng đầu
tư quy mô lớn ra đời làm thay đổi cơ cấu xã hội của chủ nghĩa tư bản. Marx nhận
xét, vậy là nhà tư bản “đã từ bỏ sản nghiệp tư hữu của chủ nghĩa tư bản họ chỉ
còn là chủ cổ phần của xí nghiệp”. Do đó, phát biểu với quần chúng ngày
8-9-1872 ở Amsterdam (Hà Lan) Marx công nhận các nước như Mỹ, Anh, Hà Lan… công
nhân có thể đạt được mục đích của mình bằng biện pháp hòa bình.. Hai ông tán
thành quan điểm của Ferdinand Lassalle lãnh tụ Đảng Xã hội – Dân chủ Đức chủ
trương hòa bình đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi tan rã quốc tế thứ nhất năm
1876, hai ông không tìm cách khôi phục lại mà bắt đầu soạn thảo Cương lĩnh
chuẩn bị ra đời Quốc tế thứ 2. Năm 1883 Marx qua đời, do đó Engels là người chủ
trì Đại hội quốc tế của những người lao động xã hội chủ nghĩa tại Pari từ 14
đến 21 tháng 7 năm 1889 thành lập Quốc tế thứ 2 mà nội dung của nó hoàn toàn
khác với Tuyên ngôn cộng sản năm 1948 ở những điểm lớn sau đây:
- Đảng và công đoàn đấu tranh bênh vực,bảo vệ
quyền lợi mọi mặt của công nhân lao động.
- Không dùng bạo lực cách mạng lật đổ nhà nước
tư sản mà đấu tranh nghị trường đa nguyên đa đảng, chấp nhận thể chế đại nghị,
cử đại diện tham gia bầu cử, nếu thắng cử thì nắm quyền chính trị thực hiện chế
độ xã hội - dân chủ.
- Trong Đảng không lấy lập trường, quan điểm ý thức
hệ sát phạt nhau mà tự do tư tưởng, và tất cả thượng tôn pháp luật.
Ngày 6-3-1895, Engels viết lời tựa cho quyển
sách “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, trong đó có đoạn như sau: “Lịch sử chứng tỏ
chúng ta mắc sai lầm. Quan điểm của chúng ta hồi đó chỉ là một ảo tưởng. Lịch
sử còn làm được nhiều hơn, không những xóa bỏ những mê muội của chúng ta mà còn
thay đổi điều kiện đấu tranh của giai cấp vô sản. Phương pháp đấu tranh năm
1848 đã lỗi thời về mọi mặt”.
Lê nin không chấp nhận đường lối của Quốc tế
thứ 2. Do đó không thể xem ông là người kế tục Marx và Engels. Ông kế thừa chủ
nghĩa Blanqui, phái bạo lực trong Quốc tế thứ 1, cho rằng, chỉ cần dựa vào cách
mạng bạo lực là có thể sáng tạo được một thế giới mới không có bóc lột và áp
bức.
Do Lê nin chống Quốc tế 2, Đảng Xã hội Dân chủ Nga
chia ra thành 2 phái đối lập nhau, phái theo Lê nin chiếm đa số nên gọi là
bonsevich. Trái với dự đoán của Marx – Engels là cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ
thành công ở nước tư bản phát triển nhất như Đức, Lê nin lãnh đạo Cách mạng
tháng mười thành công ở nước Nga nông nghiệp lạc hậu. Điều này đã làm cho ông
tự tin rằng mình không kém Marx, mà còn đúng hơn Marx! Ông đề ra các nguyên lý
về chuyên chính vô sản không phải là chuyên chính của cả giai cấp mà là chuyên
chính của Đảng độc quyền, không còn bảo đảm “sự tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của mọi người” (Tuyên ngôn của Đảng cộng sản), ông
đề ra nguyên tắc tập trung dân chủ, …
Ngay sau cách mạng Tháng 10 thắng lợi đã có nhiều
nhà cách mạng Nga và thế giới không đồng ý với các quan điểm của Lê nin như
Plekhanov, Kausky, Rosa Luxemburg … Trong đó, bà Luxemburg được Franz Mehring
người viết tiểu sử của Marx cho là “khối óc tốt nhất đứng sau Marx”, bà nhân
định “chuyên chính vô sản của Lê nin đối lập với dân chủ”.
Các ý kiến phản đối cho rằng Lê nin sẽ làm chế độ
cách mạng Liên Xô đi tới chỗ sụp đổ đã được nhà nghiên cứu xã hội John Reed ghi
lại trong quyển “Mười ngày rung chuyển thế giới” (Việt Nam đã dịch và xuất bản
2 lần năm 1960 và 1977). Lê nin đọc sách này một cách hứng thú, ông đã viết thư
cỗ vũ nhà xuất bản in sách, chấp nhận công khai các lời chỉ trích nói trên đối
với ông. Do đó, sau khi Liên Xô sụp đổ nhiều nhà bình luận cho rằng chính Lê
nin mới là người gieo mầm cho Liên Xô bị tan rả 70 năm sau.
Ngày nay nhiều nhà nghiên cứu có uy tín đều
cho rằng chính các Đảng xã hội - dân chủ mới là những Đảng thừa kế đúng đắn tư
tưởng của Marx và Engel. Nhiều nước Bắc Âu vận dụng tư tưởng này đã giành thắng
lợi lớn, thực hiện đa nguyên, đa đảng, nhưng luôn giành thắng lợi trên nghị
trường, xây dựng nhà nước phúc lợi, nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là
công nhân lao động, khoảng cách giàu nghèo không đáng kể, tham nhũng hầu như
không có.
Đảng xã hội - dân chủ Thụy Điển, chấp nhận đa
nguyên, dựa vào người lao động, đấu tranh nghị trường;. Có thời gian rất dài
Đảng liên tục cầm quyền 44 năm, đưa nước Thụy Điển nghèo nàn, lạc hậu trở thành
nước giàu bật nhất, khoảng cách giàu nghèo không đáng kể, hầu như không có tham
nhũng, ổn định nhất thế giới. Năm 2013 Cộng hòa Liên Bang Đức nước giàu mạnh
nhất Châu Âu kỷ niệm 150 năm Đảng dân chủ - xã hội Đức, một Đảng theo đường lối
của Quốc tế 2 lâu đời và vững mạnh vào bậc nhất. Nhân dịp này Tổng thống
Joachim Gauck có bài
diễn văn ca ngợi Đảng có lịch sử lâu dài dám xả thân vì niềm tin của mình:
“Đó là bầu cử tự do, bình đẳng trong cả nước, bất chấp sự khác biệt xã hội của
những người tham gia bầu cử, là cấm lao động trẻ em, là các tòa án phải độc
lập”. Quan điểm đúng đắn đã thắng thế trong Đảng, đó là: Không thiết lập một
đặc quyền giai cấp mới nào”, “dân chủ phải vừa là phương tiện vừa là mục tiêu”,
“đấu tranh cho cải cách chứ không phải cho việc làm cách mạng”, ” can đảm phấn
đấu cho sự hợp tác chính trị với những lực lượng to lớn khác của các đảng phái
tư sản”; “cải thiện từng bước cụ thể đời sống con người, thay vì công bố những
mục tiêu xa vời không tưởng”. Do đó, Đảng kế thừa tư tưởng của Marx, Engels,
Lassalle vững mạnh suốt 150 năm làm choTây Đức có thu nhập cao gấp 4 lần Đông
Đức xã hội chủ nghĩa theo chuyên chính vô sản của Lê nin khi thống nhất!
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam cũng tỏ rõ một quá
trình tự diễn biến rất gian nan, có lúc nhanh, lúc chậm, có lúc đúng, lúc sai
và nhiều lần sai rất nghiêm trọng và kéo dài. Khoảng 1930- 1931 khẩu hiệu
vang dội của Đảng là “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc trốc tận rể”. Năm 1945
đảo ngược lại hoàn toàn: Đoàn kết mọi người yêu nước, không phân biệt, đảng
phái, giai cấp… Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết! Khoảng năm 1950 bắt đầu nói
“Đoàn kết công, nông, binh”. Còn hiện nay thì nói “ Liên minh công nhân, nông
dân, trí thức là nền tảng”.
Sau năm 1975, Đại hội 4, Đại hội 5 đều đặt nhiệm vụ
lớn nhất là “Thiết lập hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước” và “Nắm vững
chuyên chính vô sản là nắm vững đường lối của Đảng”. Nội dung của nó là tiếp
tục đấu tranh giai cấp, tiêu diệt mầm móng bóc lột, giải quyết triệt để “vấn đề
ai thắng ai”. Ngày nay hầu như những chữ “chuyên chính vô sản” và “ai thắng ai”
đã biến mất mà Nghị quyết bắt đầu nói “ con người là trung tâm”, và “phải thực
hiện quyền con người”. Nghị quyết Đại hội 4 và 5 đều có chủ trương lớn là cải
tạo xã hội chủ nghĩa về công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp. Về công nghiệp
không để một xí nghiệp tư nhân nào. Nông dân phải vào hợp tác xã. Cửa hàng tạp
hóa của tiểu thương cũng không còn. Nghị quyết Đại hội 4 ghi “Sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa chỉ có thể thành công thông qua xây dựng có ý thức, có kế hoạch.
Vì vậy kế hoạch là công cụ chính để quản lý và điều khiển quá trình từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.” Hiện nay, nghị quyết bảo phải vận dụng
đầy đủ quy luật thị trường. Đại hội 4 và Đại hội 5 đều quyết định “Tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Năm 1976, Tổng bí thư Lê Duẩn
nói “thời kỳ quá độ kéo dài khoảng 20 năm”. Năm 2013, tại Quốc hội Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng nói, chưa biết đến hết thế kỷ này đã có chủ nghĩa xã hội hay
chưa. Đại hội 6 nhận định nền kinh tế đạt kết quả không tương xứng với sức lao
động và vốn đầu tư bỏ ra. Nguyên nhân là do “Mười năm qua đã phạm nhiều sai lầm
trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, về
cải tạo xã hội chủ nghĩa và về quản lý kinh tế”. Đại hội 6 cho sai lầm là do
“duy ý chí” không nhìn đúng sự thật và đưa ra khẩu hiệu “Nhìn thẳng sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đại hội quyết định Đổi mới toàn diện,
bắt đầu là đổi mới kinh tế. Đại hội 9 cho phép doanh nhân (tên mới của nhà tư
sản) được thuê công nhân với số lượng không hạn chế. Đại hội 11 chủ trương kết
nạp doanh nhân vào Đảng cộng sản, tức là nhà tư sản được đứng vào đội tham mưu
của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng. (Điều này ông Nguyễn Đức Bình nguyên
ủy viên Bộ chính trị, giám đốc Học viện Nguyễn Ái Quốc kiên trì cực lực phản
đối vì cho rằng như vậy không còn gì là chủ nghĩa xã hội!).
Lược qua ở trên đã cho thấy Đảng
cộng sản Việt Nam luôn luôn tự diễn biến hòa bình. Nhờ đó mà Đảng thoát khỏi
những tai ương cho mình và tai họa cho dân tộc như: cải cách ruộng đất, cải tạo
xã hội chủ nghĩa, bỏ tù hàng loạt cán bộ cao cấp gọi là “ nhóm chống Đảng”.
Diễn biến hòa bình lớn nhất là Đổi mới của Đại hội 6, quyết định bỏ một nửa,
nhưng là một nửa quan trọng nhất lý thuyết xã hội chủ nghĩa của Lê nin, Stalin.
Quan trọng nhất là nói theo Marx: cơ sở kinh tế quyết định đối với thượng tầng
kiến trúc. Nhờ đó mà dư luận quốc tế hi vọng sẽ sớm xuất hiện “ Con rồng Việt
Nam”. Nhưng sau gần 30 năm đã làm người ta thất vọng. Thành tích đổi mới kinh
tế đã làm cho những người lãnh đạo chủ quan cho rằng có thể không cần đổi mới
chính trị. Thực ra những người lãnh đạo sợ rằng đổi mới chính trị sẽ đe dọa sự
tồn tại vị trí cầm quyền của Đảng. Những người sáng suốt nhất, dũng cảm nhất
của Đảng như Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Hộ …đề nghị đổi mới chính trị đều
bị sa thảỉ.
TẠI
SAO TÁN THÀNH TAM QUYỀN PHÂN LẬP?
Chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Lê nin đều không có nhà
nước pháp quyền mà chỉ có nhà nước chuyên chính vô sản. Nhà nước pháp quyền với
tam quyền phân lập là của nền dân chủ phương Tây. Nhà nước Việt Nam theo Hiến
pháp 1946 là nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập. Các Hiến pháp sau này khác
Hiến pháp 1946 chính là ở đó. Sau Đổi mới, đến Đại Hội 7 TBT Đỗ Mười là người
có sáng kiến đưa ra khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, có định
nghĩa như hiện nay.
Các nhà tuyên huấn của Đảng giải thích: Quyền
lực nhà nước là thống nhất. Bởi vì quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nhân
dân thì không thể chia cắt ( chuyên viên cao cấp của Ban tuyên giáo Trung ương
giảng về Hiến pháp 2013 ở đảng bộ phường Tân Kiểng). Lý lẽ đó không chính xác.
Nhà nước là công cụ của nhân dân. Nhân dân có quyền phân chia các quyền tư
pháp, hành pháp, tư pháp như thế nào để có hiệu quả nhất cho phát triển và
chống tham nhũng. Phân quyền của nhà nước pháp quyền, chứ đâu phải là phân chia
nhân dân! Còn có lý lẽ thứ 2, “tam quyền phân lập” là của phương Tây của tư sản
không thích hợp cho phương Đông và nước xã hội chủ nghĩa. Về điều này có thể
lấy ý kiến của Tôn Trung Sơn nhà cách mạng vĩ đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều
lần đề cao. Ông nói trong bài phát biểu năm 1927 trước quốc dân: “Dân chủ dân
quyền thì phải học Phương Tây. Bởi vì Phương Đông và Trung Quốc suốt 4000 năm
lịch sử chìm đắm trong quân quyền”. Việt Nam ta cũng theo “quân quyền” cho đến
1945.
Xin trích hai ý kiến cách nhau hơn 2000 năm về ‘tam
quyền phân lập” mà cho đến nay vẫn được cả nhân loại truyền tụng làm theo.
Triết gia vĩ đại thời cổ đại, Aristote nói “Tôi nhìn
thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào pháp luật không có hiệu lực
và nằm dưới quyền của một ai đó. Còn nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm
quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật thì ở đó tôi thấy sự cứu
thoát của nhà nước”.
Một triết gia Pháp vĩ đại của thế kỷ 19 là
Montesquieu nói: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một
người hay một viện nguyên lão thì không còn gì là tự do nữa. Người ta sợ rằng
chính ông ấy hoặc Viện ấy, chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc
tài. Cũng không có tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền hành pháp
và lập pháp. Nếu như quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp thì người ta sẽ
độc đoán với quyền sống và quyền tự do cuả công dân. Quan tòa sẽ là người đặt
ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập với quyền hành pháp thì quan tòa có sức mạnh
của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức nắm cả ba quyền thì tất cả đều mất
hết”.
Ngày nay các nước dân chủ đều thực hiện nhà nước
pháp quyền với tam quyền phân lập để: Xã hội được tự do khi nhà nước bị kiểm
soát bởi luật pháp mà mục đích là để bảo vệ quyền con người. Xã hội được quản
lý bởi một chính phủ của luật pháp. Thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng có câu “Người dân có quyền làm tất cả những điều gì luật pháp
không cấm và sử dụng luật pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ
quan nhà nước và cán bộ công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép.”
Đó là những ý kiến rất đúng đắn nhưng không thể thực
hiện được nếu như không có nhà nước pháp quyền, với tam quyền phân lập! Vì sao?
Bởi vì ở Điều 2 của Hiến pháp ghi ”Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện cá quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp”. Quốc hội là cơ quan lập pháp, nhưng thực ra gồm có đủ mặt
những người của hành pháp và tư pháp. Điều đó gây hậu quả đúng như Montesquieu
cảnh báo như trên. Quyền tư pháp độc lập không thể thực hiện theo “sự phân công
phối hợp” được. Do đó nó đẻ ra điều người gọi là “án bỏ túi”. Án oan sai nhiều
không kể xiết, rất đáng lo là nhiếu oan sai tới mức án tử hình. Rất nhiều vụ án
xét xử kéo dài hàng chục năm như vụ án “vườn đào”, vụ án “ăn trộm dê”… Nghị
quyết 49/TW của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020 không có đề ra
việc thực hiện quyền Tư pháp độc lập. Do đó, mỗi năm đều họp bàn mà suốt 10 năm
vẫn không có nền Tư pháp trong sạch vững mạnh như mục tiêu đề ra!
Nguyên nhân quan trọng nhất khiến quyền tư pháp
không thể độc lập là do Điều 4 Hiến pháp quy định Đảng cộng sản Việt Nam là
“lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Như vậy “quyền lực nhà nước là thống
nhất…” nhưng cuối cùng cả 3 quyền đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, tức là
Đảng có quyền đứng trên quyền tư pháp, đứng trên pháp luật.
Một số nhà nghiên cứu pháp luật là đảng viên đã hơn
chục năm nay kiên trì góp ý rằng: Đảng đã lãnh đạo xây dựng Hiến pháp cụ thể
hóa Cương lĩnh của Đảng rồi thì không nên trực tiếp lãnh đạo quyền tư pháp.
Phải để quyền tư pháp đứng trên thì mới ngăn chặn được tham nhũng. Đảng đang
lâm vào tình trạng tham nhũng suốt hơn 30 năm, càng ngày càng nghiêm trọng, nếu
không dũng cảm chấp nhận tư pháp độc lập thì không khác nào người bị bệnh nặng
mà cứ giành quyền chỉ đạo thầy thuốc!
TẠI
SAO ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN LẠI TÁN THÀNH ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG?
Như vậy là tạo điều kiện cho các đảng đối lập giành
quyền lãnh đạo của Đảng mình? Hậu thuẩn cho câu hỏi này là lập luận: Trong thời
kháng chiến gian khổ, tại sao các đảng đối lập không nhảy ra tranh với Đảng
cộng sản về sự hi sinh, nay sau khi đất nước hòa bình phát triển lại muốn nhảy
ra tranh phần? Cách nghĩ như vậy giống như đòi chia “quả thực” trong cải cách
ruộng đất, ai “đấu tố” mạnh thì phải được chia phần nhiều hơn; hoặc giống như
một Công ty cổ phần bàn chuyện chia lãi, chứ không giống một Đảng cách mạng
từng tuyên bố “Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài mục đích phấn đấu cho
quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân” (giáo trình tư tưởng Hồ Chí
Minh của Bộ Giáo dục - Đào tạo). Trong hạnh phúc của nhân dân có quyền tự do,
mà chủ tịch Hồ Chí Minh có câu thơ rất hay “Trên đời nghìn vạn điều cay đắng.
Cay đắng chi bằng mất tự do”. Trong các quyền tự do có quyền tự do chính trị.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Nhà nước Việt Nam ký kết
từ 24-9-1982 ở Lời nói đầu có ghi “Chỉ có thể đạt được lý tưởng của con người
tự do được tận hưởng tự do về dân sự và chính trị không bị sợ hãi…” và ở Điều 1
ghi nhận “quyền quyết định thể chế chính trị”. Hiến pháp 1946 ghi nhận quyền:”
Tự do tổ chức và hội họp”. Các Hiến Pháp sau này đều có ghi nhận tất cả các
quyền tự do, trong đó có quyền lập hội, nhưng đã mắc nợ nhân dân suốt 70 năm
không được thực hiện. Mặc dù Hiến pháp và Luật đều không điều nào cấm lập đảng,
lập hội, nhưng thực tế thì không cho phép. Và như phần trên đã nói, từ 1866
Marx và Engels đã chấp nhận đa đảng. Thật ra ngay từ 1848, trong Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản ở chương 4 về “Thái độ đối với các đảng đối lập” (trang 99) hai
ông đã dạy những người cộng sản cách sống chung với các đảng tư sản. Không chấp
nhận đa nguyên chính trị, cứ tưởng sẽ tốt, có lợi cho Đảng cầm quyền, bởi vì
không sợ ai tranh giành với mình. Nhưng theo bài học rất sơ đẳng thì chính đó
lại là tự giết mình. Đó là bài học từ sự sụp đổ của các Đảng cộng sản Liên Xô,
Đông Âu. Bởi vì độc quyền thì sinh ra quan liêu, quan liêu sinh tham nhũng,
tham nhũng lũng đoạn mọi mặt sẽ làm bại hoại mục ruỗng cả Đảng và cả dân tộc.
Chấp nhận đa nguyên đa đảng là học bài học trường tồn một cách đường đường
chính chính của các Đảng xã hội - dân chủ Thụy Điển, Na Uy, Đức …Nguyên ủy viên
Bộ chính trị, chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An trong bài nói ngày 7-12-2010 trên
Tuần Việt Nam, cho rằng tình trạng suy thoái của Đảng như hiện nay, “không phải
là do bị diễn biến hòa bình … Chính những đảng viên cộng sản chân chính, liên
minh giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức cách mạng, cũng không
muốn bảo vệ sự độc quyền của một Đảng biến chất, thoái hóa, tham nhũng. Đảng đã
thành vua tập thể”. Ông vua phong kiến thì chẳng sao, dù cho ông ta có 3000
cung nữ, dù cho đất đai cả nước là của vua. Nhưng Đảng thì lại khác, bởi Đảng
phải nói và làm theo chủ tịch Hồ Chí Minh “ Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là nhân dân, vì dân là chủ”. Và người dân luôn luôn so sánh lời nói với
việc làm của đảng viên có đi đôi hay không.
TẠI
SAO VI PHẠM 19 ĐIỀU CẤM THEO QUYẾT ĐỊNH 47/QĐ/TW?
Mấy mươi năm trước đảng viên chỉ thực hịên Điều lệ,
Nghị quyết Đảng và pháp luật mà nói chung rất tốt. Hơn 10 năm qua có thêm quy
định các điều cấm không được làm, nhưng tình hình cứ xấu đi. Quyết định 47/
QĐ/TW ghi là “Căn cứ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam”. Nhưng Hiến pháp Việt Nam
có ghi các quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, lập hội, biểu tình thì Quyết
định 47/QĐ/TW ở Điều 6 cấm “biểu tình tập trung đông người gây mất an ninh trật
tự”. Quy định này không rõ, bao nhiêu người thì gọi là đông người, và nếu đông
người mà không gây mất trật tự thì có được phép hay không? Như trên tôi đã kể,
chúng tôi mới trên đường đi thì đã bị vây bắt rồi, làm gì đã gây ra mất an
ninh!
Và nói trái nghị quyết cũng là một khái niệm rất khó
xác định. Mọi đảng viên đều phải bình đẳng, vậy Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
nói ở Vĩnh Phú, phê phán các đảng viên đi biểu tình phản đối Trung Quốc là suy
thoái chính trị có đúng Nghị quyết Đảng và Hiến pháp không? Ông nói “hết thế kỷ
này cũng chưa chắc có chủ nghĩa xã hội” có đúng Nghị quyết không? Ông nói Hồ
Chủ tịch viết trong Di chúc “Đảng ta là Đảng cầm quyền là hơi hẹp, đúng ra phải
nói Đảng ta là Đảng lãnh đạo có đúng nghị quyết không? Có xúc phạm lãnh tụ
không?
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nhiều phát biểu rất
đúng, nhưng tôi e rằng nếu là người khác nói thì rất có thể sẽ bị quy là trái
Nghị quyết: Ví như ông lên tiếng giữa Quốc hội đòi Hoàng Sa, phê phán Trung Quốc
ở Shangri-la làm cho họ cáu giận, và Thông điệp đầu năm 2014 của ông đưa ra
nhiều khái niệm đúng đắn về dân chủ giống như của phương Tây mà các Nghị quyết
của Đảng đều chưa hề ghi nhận? Chẳng lẽ trong Đảng không có bình đẳng về phát
ngôn? Cấp trên muốn nói gì cũng được còn cấp dưới thì không?
Tôi cho rằng Quyết định 47/QĐ/TW hoàn toàn
trái ngược với Hồ Chí Minh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một
Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình vạch rõ những cái đó
vì đâu mà có khuyết điểm, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rổi kiếm mọi
cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc
chắn, chân chính”. “Nghị quyết gì mà người dân nói là không đúng thì để họ để
nghị sửa lại”
“Quyền tự do tư tưởng hóa ra là quyền tự do
phục tùng chân lý” và “Dân chủ là người dân được mở mồm ra nói”. Chẳng lẽ đảng
viên cũng là công dân lại không được mở mồm như người dân? Cách quy định những
điều cấm như thế qua hơn 10 năm đã chứng tỏ nó không làm Đảng mạnh và tốt lên,
trái lại, bêu riếu sự lạc hậu trong thời đại bùng nổ thông tin. Thời đại ngày
nay các đảng chính trị đều thực hiện dân chủ nội bộ và thực hiện công khai minh
bạch không chỉ trong nội bộ mà trước toàn dân. Chỉ có như vậy mới không tái
diễn chuyện “khoán chui” và “xé rào”. Tuy vậy, tôi cũng đã nhiều lần định không
đưa bài góp ý lên mạng mà chỉ gửi cho Đảng và các báo, các mạng của Đảng, nhưng
các báo đều không đăng, Đảng thì không bao giờ hồi âm!
Thưa các đồng chí nhiều khi tôi quá bức xúc,
đau lòng, cảm thấý dường như Đảng ngày nay không phải là Đảng mà ngày xưa mà
tôi giơ tay thề hi sinh đến giọt máu cuối cùng vì Đảng ấy “không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài. Nó làm trọn nhiệm vụ giải phóng dân tộc làm cho Tổ
quốc giàu mạnh đồng bào sung sướng.” Hình như có những kẻ muốn biến Đảng thành
công cụ của các “nhóm lợi ích” giúp họ giữ ghế và làm giàu! Là một nhà báo có
35 năm theo dõi phong trào công nhân lao động, cho nên bức xúc nhất của tôi là
nhìn thân phận khốn cùng của giai cấp công nhân hôm nay.Tôi vô cùng bức xúc khi
cảm nhận rằng hai giai cấp lớn nhất, có công đóng góp lớn nhất cho thắng lợi
của cách mạng và kháng chiến là công nhân và nông dân đã bị phản bội bằng nhiều
chính sách quá bất công đối với họ.
Có lẽ bản kiểm điểm của tôi không đáp ứng được
yêu cầu của các đồng chí chỉ đạo cuộc kiểm điểm. Nhưng biết làm sao, khi đó là
nhận thức thành thật của tôi, một đảng viên sau hơn 55 năm đứng trong hàng ngũ
Đảng, sống thanh bạch, ngoài 80 tuổi còn ký kết hợp đồng viết bài cho báo Lao
Động và lúc nào cũng nghĩ về vận nước và sự suy thoái của Đảng, lại là kẻ suy
thoái chính trị ư? Không! Tôi cho rằng chính những người bảo thủ, giáo điều,
không sáng suốt chấp nhận đổi mới chính trị, khiến cho một Đảng cách mạng, anh
hùng, trở thành một Đảng suy thoái tham nhũng, họ mới chính là kẻ suy thoái
chính trị. Do đó, tôi không nhận bất cứ hình thức kỷ luật nào có tên gọi là suy
thoái tư tưởng chính trị. Nhưng tôi không muốn tuyên bố từ bỏ Đảng mà xin
nhường cho Đảng quyền khai trừ mình. Bởi vì như vậy, tôi sẽ được yên lòng rằng,
Đảng khai trừ tôi không phải là Đảng mà tôi từng tha thiết xin được gia nhập và
thề phục vụ suốt đời. Và có lẽ nhờ đó từ ngày mai tôi sẽ không còn quá băn
khoăn về trách nhiệm đối với Đảng, không còn bức xúc cứ muốn viết bài góp ý,
xây dựng Đảng.
Ngày
22-2-2014
Tống Văn Công
Tác giả gởi cho viet-studies ngày 26-2-14
No comments:
Post a Comment