Vũ Đức Khanh
Lê Quốc Tuấn chuyển ngữ
Chủ Nhật, 02/09/2012
Tính đến nay, đã gần 67 năm kể từ khi bản
Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được xướng lên vào ngày 02 tháng chín năm 1945.
Bản văn kiện khẳng định rõ ràng rằng Việt Nam là một quốc gia tự do và độc lập,
không còn bị cai trị bởi người Pháp hoặc người Nhật.
Những dòng đầu tiên của văn kiện: "Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc." - vay mượn trực tiếp từ bản Tuyên ngôn
Độc lập của Hoa Kỳ.
Tác giả của văn kiện này? Không ai khác hơn
là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ánh sáng dẫn đường của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có lẽ
là không có gì đáng ngạc nhiên khi khẩu hiệu "Độc lập, Tự do và Hạnh
phúc" của Việt Nam đưa đến suy nghĩ về những quyền bất di bất dịch.
Tuy nhiên, gần 67 năm sau đó, những quyền
bất di bất dịch ấy vẫn còn là điều không tưởng đối với người dân Việt Nam và bị
khuất phục dưới ách cai trị độc tài của Đảng Cộng sản. Thay vào đó, những lời
lẽ hy vọng vốn phải tạo cảm hứng cho một thế hệ người Việt Nam đã bị bỏ qua.
Độc lập, tự do và hạnh phúc đã bị giới hạn trong những người cầm quyền. Không
nghi ngờ gì rằng ngày nay Việt Nam là một sản phẩm của cơ hội bị lãng phí.
Khát vọng độc lập
Tinh thần độc lập của Việt Nam không phải
là khó hiểu. Những trang sử đầu tiên của Việt Nam đã có liên quan đến Trung
Quốc, đất nước vốn có hiện diện và phát triển từng phủ bóng lâu dài lên quốc
gia Đông Nam Á nhỏ bé này. Thực dân Pháp, tiếp theo là thống trị của Nhật, và
một thời gian ngắn bị Pháp kiểm soát đã tăng thêm phận nô lệ các cường quốc
nước ngoài của Việt Nam.
Sau thế chiến thứ hai, đối với những người
yêu nước, độc lập là điều tối thượng, nhưng không phải tất cả mọi người đều
cùng đồng ý với nhau về phương sách. Cuộc chiến đấu giành độc lập, trầm trọng thêm bởi việc chia cắt thành hai
miền Nam, Bắc, đã trở thành một cuộc chiến đấu cho sự thống nhất, với Hoa Kỳ và
các đồng minh hỗ trợ miền Nam Việt Nam trong khi Liên Xô và Trung Quốc hỗ trợ
miền Bắc. Lẽ ra đó là một cuộc chiến mà người Cộng Sản Bắc Việt đã chiến thắng,
nếu như cuộc chiến ấy không từng phải chứng kiến hàng trăm ngàn người dân miền
Nam Việt Nam chạy trốn sang Hoa Kỳ, Canada, Úc, Châu Âu và các nơi khác.
Với việc chiến tranh kết thúc, không còn
những cuộc thảo luận tập trung vào việc phát triển một quốc gia độc lập, nhưng
là việc duy trì ách kiểm soát. Giành được chiến thắng, những người Cộng sản đã
từ bỏ các cuộc đàm phán về xây dựng đất nước, thay vào đó, là lựa chọn việc
thắt chặt quyền kiểm soát đất nước tả tơi của mình. Những ngày sau đó từng khiến
các công dân Việt Nam lâm vào cảnh nghèo đói, cho đến khi các cải cách thị
trường tự do giữa những năm 1980 đã giúp di chuyển đất nước tham gia được vào
phần còn lại của thế giới.
Tuy nhiên, kể từ đó, đất nước này vẫn đi
khập khiễng. Khi Trung Quốc phát triển mạnh, không còn là một quốc gia nông
nghiệp như đã từng trong nhiều thập niên, Việt Nam vẫn phải vất vả đấu tranh để tìm cách cho đôi
chân mình tiến về phía trước.
Cũng vẫn là áp bức
Tham nhũng, vi phạm nhân quyền, và một loạt
những quan tâm khác đã thải Việt Nam vào hàng ngũ những nước không dân chủ. Một
đất nước độc đảng làm tất cả điều gì có thể để ngăn cản biểu hiện chính trị,
trừ khi biểu hiện ấy thuộc về Đảng Cộng sản. Lên tiếng chống lại chính phủ và
đòi hỏi thay đổi bị coi là tuyên truyền chống nhà nước, phải chịu hình phạt
nghiêm khắc.
Những người cộng sản đã lật đổ những gì họ
tin là một chính phủ bù nhìn của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, chế độ thực dân Pháp
và đế quốc Nhật Bản trước họ, tất cả dưới ý niệm rằng họ là người giải phóng kẻ
bị áp bức. Tuy nhiên, như lịch sử đã chứng minh, họ đã trở thành chính những gì
mà mình từng ghét cay ghét đắng.
Hiện
nay, ở Việt Nam, độc lập, tự do, và hạnh phúc không hề hiện diện. Bảo rằng người dân bị tước đoạt những điều ấy là cực
đoan quá lời - ở một số mức độ, người dân vẫn có độc lập, tự do, và hạnh phúc -
nhưng để nói rằng cuộc hành trình ấy đã hoàn tất thì quả là ngây thơ.
Nếu nói thẳng thắn rõ ràng rằng người dân
Việt Nam đã đạt được những gì mình từng sắp đặt từ lâu về trước sẽ là không
trung thực. Việt Nam có thể có độc lập với các cường quốc nước ngoài,(mặc dù
người ta có thể tranh luận về việc hiện nay Hà Nội chịu bao nhiêu ảnh hưởng từ
Trung Quốc), tuy nhiên, việc được tự do thoát khỏi đàn áp và cai trị bất công
của người Việt nam vẫn còn xa khỏi tầm tay.
Cho dù đó là một hoàng đế Trung Quốc, thực
dân Pháp hay đế quốc Nhật, Việt Nam đã chỉ đơn giản là thay thế một quyền lực
độc đoán bằng một loại khác nhưng tương tự. Đảng Cộng sản đã tích cực hành động
để ngăn chặn cải cách dân chủ - những cải cach đã từng đưa Việt Nam đi từ cách
mạng này đến cách mạng khác. Dù vẫn có những khác biệt giữa chế độ hiện hành
tại Hà Nội với những quyền lực ngoại lai trong quá khứ, mấu chốt của vấn đề vẫn
chưa được giải quyết là: một
thiểu số cai trị bằng quyền lực không giới hạn và vô trách nhiệm với người dân.
Việt Nam có độc lập không ? Đất nước không còn là một thuộc địa hoặc trắng trợn phục
dịch một nước khác. Người dân Việt Nam
có tự do không ? Ngày nay, công dân có những quyền tự do về kinh tế vốn
chưa từng được biết đến ở bất kỳ điểm nào trong quá khứ của đất nước mình.
Nhưng, bất kể tên gọi là gì, áp bức vẫn là áp bức, và chính phủ hiện nay đã
không hề mang lại được một bằng chứng cho thấy
điều ngược lại. Những vụ đàn áp biểu tình, giam giữ và bỏ tù các nhà hoạt động
chính trị và nạn chính phủ tham nhũng dường như là minh họa của một câu nói xưa
cũ, "Càng thay đổi chừng nào. Mọi chuyện vẫn cứ thế ".
Con đường dài trước mặt
Thật là khó hiểu khi chế độ Cộng sản đã
được cai quản quá lâu khi điều mà người dân mong muốn vẫn chưa thực hiện được.
Phải chăng chỉ đơn giản đa số đã đầu hàng với ý muốn thay đổi dân chủ? Hoặc
phải chăng một chính phủ độc tài là một chính phủ có thể chấp nhận được nếu các
quyền lực ấy không thuộc về ngoại bang ?
Câu trả lời có thể được tìm thấy trong nhân
khẩu học, với hơn 70% dân số Việt Nam sinh ra sau cuộc chiến tranh Việt Nam,
hoặc chiến tranh chống Mỹ, như người Việt Nam gọi tên. Những nguyên nhân trực
tiếp của cuộc chiến đã nhanh chóng mờ dần khi những người từng tham dự già cỗi
và mất đi. Thay vào đó, những người sinh sau được cung cấp thứ lịch sử do chính
phủ viết nên. Đối với hơn 70% dân số Việt Nam, chính phủ mà họ biết là bình
thường và đúng như mong đợi.
Tuy nhiên, đối với cùng dân số ấy, chính
phủ của họ không phải là hình thức chính phủ duy nhất mà họ từng biết.
Ngày nay, bất cứ ai với một máy tính và kết
nối internet đều có thể đọc và theo dõi tin tức từ khắp nơi trên thế giới. Có
lẽ người Việt Nam ngày nay nhiều thông tin hơn và nhận thức hơn cha mẹ và ông
bà của họ trước đây. Đối với nhiều người trẻ tuổi ở Việt nam, dân chủ, bầu cử
tự do và công bằng không phải là khái niệm xa lạ nữa.
Những người biểu tình trên đường phố và
những người viết blog trên internet đang bị giam giữ không phải là những người
cao niên già cả mà là những người thanh niên thanh nữ trẻ tuổi muốn thay đổi
đất nước của họ. Đó là một con đường dài trước mặt cho dân chủ tại Việt Nam,
tuy nhiên, nếu lịch sử có từng báo trước điều gì, điều ấy chính là nhân dân
Việt Nam sẽ tiếp tục thúc đẩy cho sự thay đổi. Và bước đi đến dân chủ có vẻ
chậm chạp này có thể là do sự thận trọng chứ không phải vì sợ hãi..
"Độc lập, tự do và hạnh phúc"
có thể chỉ là những từ đơn giản đối với chính phủ, nhưng đây là những từ mang ý
nghĩa hết sức lớn cho người dân.
Nguồn: Asia Sentinel
No comments:
Post a Comment