Sunday 30 June 2013

YẾU TỐ ĐỊA LÝ CỦA QUYỀN LỰC TRUNG QUỐC (Robert D. Kaplan - Foreign Affairs)




Robert D. Kaplan (2010).
“The Geography of Chinese Power: How Far Can Beijing Reach on Land and at Sea”. Foreign Affairs, Vol. 89, No. 3 (May/June), pp. 22-41. >>PDF

Biên dịch: Nguyễn Thị Nhung | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Posted on 30/06/2013

Năm 1904, nhà địa lý người Anh, Sir Halford Mackinder đã kết thúc bài viết nổi tiếng “The Geographical Pivot of History” [“Trục địa lý của lịch sử”] của mình bằng một liên hệ đáng ngại về trường hợp Trung Quốc. Sau khi giải thích tại sao lục địa Á-Âu chính là trục địa chiến lược của quyền lực thế giới, ông đã cho rằng Trung Quốc, một khi mở rộng sức mạnh của mình vượt ra ngoài biên giới, “có thể tạo thành mối hiểm họa da vàng cho tự do của thế giới, đơn giản vì Trung Quốc sẽ có thêm một vùng đại dương bổ sung cho nguồn tài nguyên của lục địa rộng lớn, một lợi thế mà nước Nga không may mắn có được trong khu vực trụ cột này.”

Tạm gác lại giọng điệu phân biệt chủng tộc, vốn khá phổ biến trong thời kỳ đó, và cũng chưa xét đến sự hoảng loạn thường thấy mỗi khi đụng chạm đến sự trỗi dậy của một cường quốc ngoài phương Tây, Mackinder đã nêu ra một lập luận hợp lý: Trong khi nước Nga, một người khổng lồ khác trên lục địa Á-Âu, xét về cơ bản đã, và vẫn đang, là một cường quốc trên đất liền với một mặt giáp đại dương bị băng đá Bắc Cực rào chặn, thì Trung Quốc với đường bờ biển ôn đới 9,000 dặm, nhiều cảng biển tự nhiên thuận lợi, lại là một cường quốc lục địa lẫn hải dương. (Thực ra, trong tác phẩm của mình, Mackinder đã lo ngại Trung Quốc một ngày nào đó sẽ thôn tính cả nước Nga). Tầm với của Trung Quốc trải dài từ vùng Trung Á giàu khoáng sản và khí đốt đến những tuyến đường hàng hải trên Thái Bình Dương. Sau này, trong cuốn “Democratic Ideals and Reality” [Các lý tưởng và thực tế dân chủ], Mackinder đã dự đoán cùng với Mỹ và Vương quốc Anh, Trung Quốc cuối cùng sẽ dẫn dắt thế giới bằng việc “xây dựng một nền văn minh mới cho một phần tư nhân loại, không thực sự phương Đông, cũng không giống phương Tây.”

Vị trí đắc địa của Trung Quốc là một lợi thế rõ ràng và hiển nhiên đến nỗi nó thường bị bỏ qua trong những thảo luận về sự bùng nổ kinh tế hay cách hành xử quyết liệt của quốc gia này. Nhưng yếu tố này thực sự rất quan trọng: nó đồng nghĩa với việc Trung Quốc sẽ luôn án ngữ ở vị trí trục trung tâm địa chính trị ngay cả khi con đường tiến lên vị thế cường quốc toàn cầu của nước này không hoàn toàn suôn sẻ. (Chỉ số tăng trưởng GDP của Trung Quốc vẫn đều đặn ở mức hơn 10% mỗi năm trong suốt hơn 30 năm qua, nhưng mức tăng này chắc chắn khó có thể duy trì thêm trong 30 năm nữa.) Trung Quốc là sự pha trộn giữa tính hiện đại hết mực mang phong cách phương Tây với một “nền văn minh thủy lợi” (“hydraulic civilization” – một thuật ngữ do nhà sử học Karl Wittogel đề ra, dùng để mô tả những xã hội thực hiện việc quản lý tập trung nguồn nước tưới tiêu nông nghiệp)[1], gợi cho ta nhớ đến phương Đông cổ xưa, thời chế độ cai trị nhờ có trong tay quyền lực tập trung có thể tuyển mộ hàng vạn dân phu xây dựng các cơ sở hạ tầng thiết yếu. Chính điều này đã tạo cho Trung Quốc khả năng tăng trưởng không ngừng nghỉ mà tất cả các nền dân chủ, với bản tính hay trì hoãn trong các quyết định, đều không thể làm được. Khi các nhà lãnh đạo mang danh nghĩa Cộng sản của Trung Quốc, những người kế tục di sản của 25 vương triều trong 4.000 năm lịch sử, tiếp thu công nghệ và thực tiễn phương Tây, họ đã đưa chúng vào một hệ thống văn hóa tinh vi và quy củ, vốn từng có nhiều kinh nghiệm độc đáo khác nhau, trong đó có việc thiết lập các mối quan hệ mẫu quốc-chư hầu với các quốc gia khác. Như lời của một quan chức Singapore từng nói với tôi hồi đầu năm: “Người Trung Quốc quyến rũ anh khi họ muốn, bóp nghẹt anh khi họ cần, và họ làm vậy một cách có hệ thống.”

Động lực trong nước của Trung Quốc làm nảy sinh những tham vọng với thế giới bên ngoài. Các đế quốc hiếm khi xuất hiện theo dự tính chủ quan mà thường từng bước phát triển một cách tự nhiên. Khi một quốc gia lớn mạnh, họ sẽ nảy sinh những nhu cầu và, nghe có vẻ phi lý, là cả những nỗi sợ hãi mới, những thứ sẽ khiến họ buộc phải bành trướng dưới nhiều hình thức. Ví dụ như nước Mỹ, ngay cả khi chịu sự lãnh đạo của những vị tổng thống kém cỏi nhất như Rutherford Hayes, James Garfield, Chester Arthur, Benjamin Harrison, thì nền kinh tế nước này những năm cuối thế kỷ XIX vẫn âm thầm tăng trưởng đều đặn. Khi có quan hệ thương mại ngày càng gắn kết với thế giới bên ngoài, Mỹ dần phát triển những lợi ích kinh tế và chiến lược phức tạp ở những vùng đất xa xôi. Và không ít lần, những lợi ích tại các khu vực như Nam Mỹ hay Thái Bình Dương đã trở thành cái cớ để triển khai các hành động quân sự. Trong giai đoạn này, Mỹ cũng bắt đầu tập trung ra thế giới bên ngoài khi các vấn đề trong nước đã được củng cố; trận đánh lớn cuối cùng trong các cuộc Chiến tranh với người da đỏ thực tế đã diễn ra năm 1890.

Trung Quốc ngày nay cũng đang củng cố các đường biên giới trên đất liền và bắt đầu chuyển hướng ra bên ngoài. Những tham vọng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc quyết liệt không kém của Mỹ hơn một thế kỷ trước, nhưng lại có mục tiêu hoàn toàn khác. Trung Quốc không mang trên vai sứ mệnh truyền bá giá trị nào khi đến với thế giới, không tìm cách phổ cập bất kỳ hệ tư tưởng hay chế độ chính quyền nào. Thúc đẩy giá trị đạo đức trong các vấn đề quốc tế là mục tiêu của người Mỹ, không phải của Trung Quốc. Bánh lái cho những hoạt động của Trung Quốc ở nước ngoài chính là nhu cầu quốc gia về năng lượng, quặng kim loại, và những khoảng sản chiến lược giúp đảm bảo mức sống đang ngày một cao của một số dân khổng lồ, chiếm khoảng một phần năm tổng dân số toàn cầu của nước này.

Để hoàn thành trọng trách này, Trung Quốc đã thiết lập các mối quan hệ có lợi với các láng giềng xung quanh cũng như những vùng đất xa xôi, giàu tài nguyên cần thiết để tiếp năng lượng cho sức phát triển trong nước. Do luôn đặt lợi ích quốc gia cốt lõi – ở đây là sự tồn tại của nền kinh tế – làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động ở nước ngoài, Trung Quốc có thể được coi là một cường quốc thực dụng cực đoan. Người Trung Quốc tìm mọi cách tăng cường hiện diện trên khắp các khu vực tại Châu Phi – những nơi được thiên nhiên ban tặng nguồn dầu mỏ và khoáng sản trù phú; luôn muốn đảm bảo quyền tiếp cận các bến cảng trên khắp Ấn Độ Dương và Biển Đông – những vùng biển kết nối thế giới Ả rập giàu khí đốt với bờ biển Trung Quốc. Không quá kén chọn, Bắc Kinh cũng chẳng quan tâm đến chế độ mình đang tham gia hợp tác thuộc loại nào. Điều nước này cần là tính ổn định, không phải đạo đức như tiêu chuẩn của phương Tây. Và trong các chế độ đó, có một số nước – như Iran, Myanmar và Sudan – đang bị cô lập và cai trị bởi chế độ chuyên chế. Điều này đã khiến Trung Quốc, trong cuộc săn lùng tài nguyên trên toàn thế giới, vấp phải xung đột với nước Mỹ vốn có xu hướng truyền bá giá trị, cũng như với những quốc gia có vùng ảnh hưởng bị Trung Quốc vô tình đụng chạm như Ấn Độ và Nga.

Tất nhiên, Trung Quốc không phải là mối nguy hiểm cho sự sống còn của các quốc gia này. Khả năng bùng nổ chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ vẫn còn xa vời, và Trung Quốc chưa thể là mối đe dọa quân sự trực tiếp đối với Mỹ. Không kể đến những vấn đề như nợ, thương mại hay khí hậu ấm lên toàn cầu…, thách thức Trung Quốc đặt ra đối với Mỹ chủ yếu là về mặt địa lý. Vùng ảnh hưởng của Trung Quốc đang dần mở rộng ở lục địa Á – Âu và Châu Phi, dù không mang tính chất đế quốc thời thế kỷ XIX nhưng lại theo cách tinh vi hơn, phù hợp hơn với thời đại toàn cầu hóa. Đơn giản chỉ bằng cách bảo đảm nhu cầu kinh tế trong nước, Trung Quốc đang dần xoay chuyển cân bằng quyền lực trên Đông bán cầu, và điều này hẳn phải khiến Mỹ hết sức quan ngại. Sẵn có vị trí thuận lợi, Bắc Kinh đang mở rộng ảnh hưởng cả trên đất liền và trên biển, từ vùng Trung Á đến Biển Đông, từ vùng Viễn đông Nga xuống Ấn Độ Dương. Trung Quốc là một cường quốc lục địa đang vươn dậy, và, như câu nói nổi tiếng của Napoleon, các chính sách của các quốc gia như vậy bắt nguồn từ chính những đặc điểm địa lý của chúng.

Hội chứng biên giới nhạy cảm

Tân Cương và Tây Tạng là hai khu vực chính trong lãnh thổ Trung Quốc nơi cư dân bản địa luôn kháng cự sức ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Điều này khiến hai vùng đất này trở thành tài sản mang tính đế quốc của Bắc Kinh. Thêm vào đó, những căng thẳng sắc tộc tại những khu vực này đang làm phức tạp hóa quan hệ giữa Bắc Kinh với các nước lân cận.

“Tân Cương”, tên của tỉnh cực Tây của Trung Quốc, có nghĩa là “biên cương mới”, dùng để chỉ vùng Turkestan rộng lớn với diện tích gấp đôi bang Texas (Mỹ) và nằm cách xa khu lục địa trung tâm của Trung Quốc qua Sa mạc Gobi. Trung Quốc đã là một nhà nước dưới hình thức này hay hình thức khác từ hàng ngàn năm năm nay, nhưng chỉ đến cuối thế kỷ XIX thì Tân Cương mới chính thức trở thành một phần của nhà nước đó. Kể từ đó, lịch sử của tỉnh này đã “luôn chìm trong bất ổn” như lời mô tả của nhà ngoại giao người Anh Sir Fitzroy Maclean, với những cuộc nổi loạn và nhiều giai đoạn tự trị độc lập ngắt quãng cho tới những năm 1940. Đến năm 1949, Quân đội Giải phóng Nhân dân của Mao Trạch Đông đã tiến vào Tân Cương, dùng vũ lực để sáp nhập tỉnh này với phần còn lại của Trung Quốc. Nhưng trong thời gian gần đây, điển hình vào năm 1990 và một lần nữa là vào năm 2009, tộc người Uighur (Duy Ngô Nhĩ), hậu duệ của người Turk từng thống trị Mông Cổ trong thế kỷ VII-VIII, đã nổi dậy chống lại chính quyền Bắc Kinh.
Dân tộc Uighur có khoảng tám triệu người, chưa bằng 1% dân số Trung Quốc, nhưng chiếm tới 45% số dân tỉnh Tân Cương. Người Hán với số lượng áp đảo trên cả nước sống tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng đất thấp tại khu vực trung tâm và vùng duyên hải ven Thái Bình Dương, trong khi những cao nguyên khô cằn hơn ở phía Tây và Tây Nam là nơi trú ngụ lâu đời của dân tộc thiểu số Uighur và Tây Tạng. Sự phân bố dân cư này vẫn luôn là nguồn gốc cho những căng thẳng, bởi trong mắt Bắc Kinh, chính quyền Trung Quốc hiện nay cần phải áp đặt quyền thống trị tuyệt đối lên các khu vực cao nguyên này. Để giữ được những khu vực này, và cả nguồn dầu mỏ, khí đốt, quặng đồng và sắt dưới lòng đất tại đây, trong nhiều thập kỷ Bắc Kinh đã đưa người Hán di cư từ khu trung tâm sang sống cùng người bản địa. Chính quyền cũng lôi kéo quyết liệt những nước cộng hòa độc lập của người Turk xung quanh trong khu vực Trung Á, một phần nhằm tách biệt người Uighur Tân Cương khỏi mọi nguồn hậu thuẫn khả dĩ.

Bắc Kinh còn lôi kéo các chính phủ Trung Á với mục đích mở rộng vùng ảnh hưởng của mình; dù biên giới Trung Quốc đã ăn sâu vào trong lục địa Á-Âu, nhưng vẫn chưa đủ so với cơn khát tài nguyên thiên nhiên của nước này. Thế lực của Bắc Kinh tại Trung Á thể hiện ở hai đường ống dẫn lớn sắp hoàn thiện nối đến Tân Cương: một dùng để vận chuyển dầu mỏ từ Biển Caspi chạy dọc qua Kazakhstan, ống còn lại để chuyển khí đốt từ Turkmenistan bắc qua Uzbekistan và Kazakhstan. Cơn khát các nguồn tài nguyên thiên nhiên còn đồng nghĩa với việc Bắc Kinh sẵn sàng bất chấp những rủi ro lớn để bảo vệ chúng. Trung Quốc vẫn tiếp tục khai thác đồng ở Nam Kabul, nằm ngay bên trong Afghanistan đầy khói lửa, và đang để mắt tới những mỏ sắt, vàng, uranium và những loại đá quý khác (khu vực này sở hữu một vài khu mỏ cuối cùng chưa được khai thác của thế giới). Bắc Kinh cũng có ý định xây dựng tuyến đường bộ và ống dẫn năng lượng xuyên Afghanistan và Pakistan, từ đó kết nối vùng ảnh hưởng đang ngày càng mở rộng ở Trung Á với những cảng biển trên Ấn Độ Dương. Điều kiện địa lý chiến lược của Trung Quốc sẽ được củng cố nếu Mỹ ổn định được Afghanistan.

Giống như Tân Cương, Tây Tạng có vị trí hết sức quan trọng trong nhận thức lãnh thổ của Trung Quốc, khu vực này cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ đối ngoại của Trung Quốc. Vùng cao nguyên Tây Tạng, với địa hình đồi núi, giàu quặng đồng và sắt, chiếm một diện tích lớn lãnh thổ Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân khiến Bắc Kinh luôn sợ hãi viễn cảnh về một Tây Tạng tự trị, chưa nói đến độc lập, và cũng là lý do chính quyền vội vàng cho xây dựng đường sá và các tuyến đường sắt trên khắp khu vực. Nếu không sở hữu Tây Tạng, Trung Quốc sẽ chỉ còn là một quốc gia nhỏ bé với phần diện tích còn lại không đáng kể, còn Ấn Độ có thể bổ sung thêm một vùng phía bắc vào cơ sở quyền lực lục địa của mình.

Với hơn một tỷ dân, Ấn Độ như một hàng rào vững chắc, án ngữ một vùng ảnh hưởng của Trung Quốc ở Châu Á. Điều này đã được chỉ rõ trong tấm bản đồ “Đại Trung Hoa” trong cuốn “The Grand Chessboard” [Bàn cờ lớn] của Zbigniew Brzezinski năm 1997. Ở một mức độ nào đó, yếu tố địa lý đã sắp đặt Trung Quốc và Ấn Độ trở thành kỳ phùng địch thủ: là láng giềng kề cận với dân số khổng lồ, cùng sở hữu nền văn hóa phong phú lâu đời, và đều có tranh chấp tuyên bố chủ quyền (điển hình như khu vực Arunachal Pradesh [Nam Tây Tạng] của Ấn Độ). Vấn đề Tây Tạng chỉ như đổ thêm dầu vào lửa. Ấn Độ đang cho phép chính quyền lưu vong của Đạt Lai Lạt Ma tị nạn từ năm 1957, và theo như Daniel Twining, ủy viên cấp cao của Quỹ Marshall Đức (German Marshall Fund), những căng thẳng biên giới Ấn-Trung gần đây có thể “liên quan đến những lo ngại của Bắc Kinh về vấn đề kế tục Đạt Lai Lạt Ma”. Vị Đạt Lai Lạt Ma tiếp theo có khả năng đến từ vùng vành đai văn hóa Tây Tạng, khu vực trải dài từ miền Bắc Ấn Độ, Nepal đến Bhutan. Do đó ông có khả năng sẽ ủng hộ Ấn Độ và chống Trung Quốc (thân Ấn bài Trung) mạnh mẽ hơn. Trong tương lai, “cuộc chơi lớn” giữa Trung Quốc và Ấn Độ sẽ không chỉ diễn ra những khu vực này mà còn ở Bangladesh và Sri Lanka. Vị trí địa lý của Tân Cương và Tây Tạng rơi vào trong đường biên giới hợp pháp của Trung Quốc, nhưng dựa trên mối quan hệ không mấy êm đẹp giữa chính quyền trung ương với người bản xứ ở hai tỉnh, có thể thấy Bắc Kinh chắc chắn sẽ không tránh khỏi thái độ chống đối khi mở rộng tầm ảnh hưởng ra bên ngoài phạm vi các khu vực nơi có người Hán chiếm đa số.
Kiểm soát từng bước

Ngay cả khi đã củng cố vùng biên cương, hình dáng của Trung Quốc vẫn mang nét chưa được hoàn thiện và dễ bị tổn thương, như thể ai đó đã cắt xén vài phần lãnh thổ của Đại Trung Hoa xưa kia. Đường biên giới phía bắc của Trung Quốc bao quanh Mông Cổ, một vùng đất đai khổng lồ như từng bị xé ra khỏi cái lưng của Trung Quốc. Mông Cổ là quốc gia có mật độ dân số thấp nhất thế giới và giờ đây đang bị nền văn minh đô thị của người láng giềng Trung Quốc đe dọa về mặt nhân khẩu. Từng một lần xâm chiếm thành công Ngoại Mông để dọn đường tiến vào vùng đất trù phú, Bắc Kinh hiện nay đã sẵn sàng chờ thời cơ để quay lại chinh phục Mông Cổ lần nữa, theo một cách khác, để thỏa cơn khát dầu mỏ, than đá, uranium và cả những đồng cỏ hoang vu và màu mỡ. Các công ty khai khoáng của Trung Quốc vẫn đang tìm kiếm cổ phần lớn trong những tài sản dưới lòng đất của Mông Cổ. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa thiếu kiểm soát đã biến Trung Quốc thành thị trường tiêu thụ lớn hàng đầu thế giới của các mặt hàng như aluminum, đồng, chì, niken, kẽm và quặng sắt, với mức tiêu thụ tăng từ 10% lên đến 25% thị phần kim loại thế giới kể từ cuối những năm 1990. Với Tây Tạng, Ma Cao và Hong Kong đã nằm trong tay chính quyền trung ương, những giao dịch của nước này với Mông Cổ sẽ trở thành thước đo để đánh giá mức độ của tham vọng đế quốc mà Bắc Kinh đang nung nấu.

Nằm ở phía bắc Mông Cổ và giáp ranh với ba tỉnh đông bắc Trung Quốc là khu vực Viễn Đông của Nga, vùng đất hoang vu, băng giá, có diện tích gấp đôi Châu Âu trong khi dân cư ngày một thưa thớt. Nước Nga mở rộng biên giới của mình đến khu vực này từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, giai đoạn Trung Quốc còn đang suy yếu. Nhưng giờ đây, Trung Quốc đã trở thành cường quốc, còn ở phía Nga, không đâu trên lãnh thổ quốc gia, quyền lực của chính quyền lại yếu như ở một phần ba lãnh thổ nằm ở phía đông này. Ở ngay bên kia biên giới của chưa đến 7 triệu người Nga vùng Viễn Đông (thậm chí đến năm 2015 có thể giảm xuống còn 4.5 triệu) là hơn 100 triệu dân của ba tỉnh tiếp giáp của Trung Quốc, nghĩa là mật độ dân số ở phía Trung Quốc cao gấp 62 lần so với phía Nga. Dòng di dân từ Trung Quốc vẫn đang đổ sang Nga, định cư đông đúc ở thành phố trung tâm Chita, phía Bắc Mông Cổ, và sống rải rác ở những nơi khác trong vùng. Tìm kiếm tài nguyên là mục tiêu hàng đầu của chính sách đối ngoại Trung Quốc khắp mọi nơi, trong khi đó vùng Viễn Đông thưa thớt của Nga lại đang sở hữu những mỏ khí đốt, dầu mỏ, gỗ, kim cương và vàng. David Blair, phóng viên thường trú cho tờ Daily Telegraph của London trong bài viết gần đây đã cho biết “Moscow đang hết sức cảnh giác với số lượng lớn những người di cư Trung Quốc đổ vào khu vực này, mang theo những công ty khai thác khoáng sản và gỗ”.
Cũng như với Mông Cổ, nỗi sợ của người Nga không phải là một ngày nào đó Trung Quốc sẽ đưa quân xâm lược hoặc chính thức thôn tính vùng Viễn Đông Nga, mà là quyền lực kiểm soát của Bắc Kinh về dân cư và doanh nghiệp đang từng bước lặng lẽ bao phủ khu vực này (trong lịch sử, Trung Quốc đã từng có thời gian ngắn nắm giữ quyền lực tại đây trong thời kỳ nhà Thanh). Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, do những tranh chấp biên giới giữa Liên Xô và Trung Quốc, hàng trăm ngàn binh lính đã được đưa đến vùng Siberi xa xôi này và đã có lúc cuộc đối đầu bị đẩy đến mức xung đột nóng. Đến cuối thập niên 1960, những căng thẳng này đã làm rạn vỡ quan hệ Xô-Trung. Yếu tố địa lý gần kề có thể gây chia rẽ Trung Quốc và Nga, bởi quan hệ đồng minh hiện nay giữa hai bên chỉ đơn thuần bắt nguồn từ những tính toán sách lược. Điều này có thể có lợi cho Mỹ. Vào những năm 1970, chính quyền Nixon đã từng lợi dụng mối bất hòa giữa Bắc Kinh và Moscow để đặt quan hệ hợp tác với Trung Quốc. Trong tương lai, khi Trung Quốc trở thành một cường quốc lớn hơn, sẽ không ngạc nhiên khi Mỹ bắt tay với Nga thành một khối đồng minh chiến lược nhằm tạo thế cân bằng với “Vương quốc trung tâm”.

Phương Nam hứa hẹn

Tầm ảnh hưởng của Trung Quốc cũng đang dần lan rộng xuống phía Đông Nam. Thực ra, do các quốc gia Đông Nam Á đều không mạnh nên đây là khu vực kháng cự yếu nhất trước sự trỗi dậy của một Đại Trung Hoa. Về địa lý, Trung Quốc gần như không gặp cản trở nào với Việt Nam, Lào, Thái Lan và Myanmar. Trung tâm ảnh hưởng tự nhiên của vùng Sông Mekong, nơi kết nối tất cả các nước Đông Dương bằng đường bộ và đường sông, là Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam của Trung Quốc.

Quốc gia có diện tích lớn nhất trên vùng lục địa của Đông Nam Á là Myanmar. Nếu như Pakistan được ví là Balkans của Châu Á do luôn có nguy cơ bị chia cắt lãnh thổ, thì Myanmar lại giống như nước Bỉ thời đầu thế kỷ XX khi luôn đứng trước mối đe dọa xâm lược từ những nước láng giếng hùng mạnh hơn. Giống như Mông Cổ, miền Viễn Đông Nga và những vùng lãnh thổ giáp khu vực biên giới Trung Quốc, Myanmar cũng là một quốc gia yếu với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú mà Trung Quốc đang thèm khát. Trung Quốc và Ấn Độ đang cạnh tranh phát triển cảng nước sâu ở Sittwe, nằm trên bờ biển Ấn Độ Dương của Myanmar, với cùng một hy vọng trong tương lai sẽ có thể xây dựng đường ống dẫn ga nối vào từ các mỏ khai thác ngoài khơi vịnh Bengal.

Với cả khu vực nói chung, Bắc Kinh đang áp dụng chiến thuật “chia để trị” (divide-and-conquer) trong một số lĩnh vực. Trong quá khứ, Trung Quốc đã đàm phán riêng rẽ với từng thành viên trong ASEAN (Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á) thay vì với tất cả các quốc gia theo tư cách một khối chung. Ngay cả hiệp định thành lập khu vực tự do thương mại chính thức với ASEAN gần đây cũng cho thấy cách thức Trung Quốc sẽ tiếp tục áp dụng để phát triển những mối quan hệ có lợi với những người láng giềng phía nam. Quốc gia này sử dụng ASEAN như một thị trường tiêu thụ những mặt hàng giá trị cao sản xuất trong nước đồng thời mua lại từ đây những sản phẩm nông nghiệp giá rẻ. Điều này đã mang về cho Trung Quốc thặng dư thương mại, trong khi biến các nước ASEAN dần trở thành bãi phế thải cho những sản phẩm công nghiệp sản xuất bởi nhân công giá rẻ của Trung Quốc.

Thực tế này đang diễn ra trong tình cảnh quốc gia hùng mạnh một thời Thái Lan, sau những rung chuyển do biến cố chính trị nội bộ gần đây, đang ngày càng mờ nhạt trong vai trò mỏ neo của khu vực và đối trọng cố hữu của Trung Quốc tại đây. Hoàng gia Thái, với vị vua già yếu, đã không đủ sức đóng vai lực lượng duy trì ổn định như trước kia, trong khi giới quân sự Thái Lan đang bị tư tưởng bè phái thống trị. (Trung Quốc đang đẩy mạnh hợp tác quân sự song phương với Thái Lan đồng thời xây dựng những mối quan hệ tương tự với các nước Đông Nam Á khác, trong khi Mỹ ngày càng lơ là các cuộc tập trận trong khu vực để dồn sức cho các cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq.) Ở phía nam Thái Lan, cả Malaysia và Singapore đều chuẩn bị bước vào thời kỳ chuyển đổi dân chủ đầy thách thức khi những nhà lãnh đạo khai quốc công thần đầy quyền lực trước đây, Mahathir bin Mohamad và Lý Quang Diệu, rời khỏi sân khấu chính trị. Malaysia ngày càng dấn sâu vào cái bóng kinh tế của Trung Quốc, cùng lúc dân số gốc Hoa tại đây cảm thấy bị đe dọa bởi người Malay Hồi giáo chiếm đa số. Singapore dù dân số hầu hết là người gốc Hoa nhưng chính phủ cũng đang lo ngại bị biến thành một nước chư hầu của Trung Quốc. Do đó, từ nhiều năm nay, đảo quốc này đã không ngừng chăm chút cho mối quan hệ về huấn luyện quân sự với Đài Loan. Lý Quang Diệu còn từng công khai thúc giục Mỹ tiếp tục can dự vào khu vực cả về quân sự lẫn ngoại giao. Về phần mình, Indonesia cũng đang bị mắc kẹt trong tình thế giữa một bên vẫn cần sự hiện diện của hải quân Mỹ để cản chân Trung Quốc, nhưng mặt khác lại lo sợ sẽ khiến phần còn lại của thế giới Hồi giáo nổi giận khi nước này có biểu hiện là đồng minh của Mỹ. Trước tình cảnh quyền lực của Mỹ tại Đông Nam Á đã bước qua thời hoàng kim, còn Trung Quốc đang trỗi dậy ngày một mạnh mẽ, các thành viên trong khu vực đang cùng bắt tay hợp tác chặt chẽ hơn nhằm làm suy yếu chiến lược “chia để trị”. Điển hình như Indonesia, Malaysia và Singapore đã liên kết thành một nhóm chống cướp biển. Các quốc gia này càng tự lực cánh sinh bao nhiêu, mối đe dọa từ quyền lực nổi lên của Trung Quốc đối với họ sẽ càng ít bấy nhiêu.

Về lục quân

Trung Á, Mông Cổ, vùng Viễn Đông Nga và Đông Nam Á là những khu vực ảnh hưởng tự nhiên của Trung Quốc. Nhưng những vùng biên giới chính trị ở đây lại không thể thay đổi. Trong khi đó, tình hình trên bán đảo Triều Tiên lại là một câu chuyện khác: về cơ bản, bản đồ Trung Quốc bị cắt cụt ngay tại khu vực này, và biên giới chính trị của bán đảo không quá khó để thay đổi.
Chế độ biệt lập của Bắc Triều Tiên vốn không ổn định từ trong gốc rễ, và sự sụp đổ của nó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực. Với địa thế vươn ra từ Mãn Châu, bán đảo Triều Tiên kiểm soát toàn bộ giao thông hàng hải ra vào đông bắc Trung Quốc. Tất nhiên không ai thực sự tin rằng Trung Quốc sẽ thôn tính bất cứ phần nào của bán đảo Triều Tiên, nhưng Bắc Kinh vẫn luôn cảm thấy bất tiện khi bị lãnh thổ của quốc gia khác nằm chắn lối ở đó, nhất là phía bắc. Và mặc dù ủng hộ chế độ Stalin của Kim Jong Il, Trung Quốc cũng lên sẵn những kế hoạch cho tương lai thời hậu cầm quyền của Kim. Bắc Kinh mong muốn cuối cùng có thể đưa hàng ngàn người đào ngũ đang cư ngụ tại Trung Quốc về lại Bắc Triều Tiên để xây dựng nền tảng chính trị thuận lợi cho công cuộc chiếm quyền kiểm soát kinh tế từng bước của Bắc Kinh đối với khu vực sông Tumen [Đồ Môn]. Đây là ngã ba tự nhiên giữa Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Nga, đồng thời cũng là nơi có các cảng biển tốt nối với Nhật Bản trên Thái Bình Dương.

Vì lẽ này, có lẽ Bắc Kinh sẽ muốn chứng kiến một Bắc Triều Tiên độc tài phát triển hiện đại hơn nữa, để từ đó tạo thành một vùng đệm an toàn ngăn cách Trung Quốc với nền dân chủ hưng thịnh và năng động của Hàn Quốc. Tuy nhiên, ngay cả khi bán đảo Triều Tiên tái thống nhất, Trung Quốc vẫn được lợi. Dù một Triều Tiên thống nhất sẽ trở nên dân tộc chủ nghĩa hơn và giữ thái độ thù địch đối với cả Nhật Bản lẫn Trung Quốc, hai kẻ thù đã từng tìm cách xâm lược nước này trong quá khứ, nhưng thái độ thù địch của Triều Tiên với Nhật Bản nặng nề hơn rất nhiều so với phía Trung Quốc. (Nhật đã chiếm đóng bán đảo từ năm 1910 đến 1945, và đến nay Seoul và Tokyo vẫn còn tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Tokdo/Takeshima). Quan hệ kinh tế với Trung Quốc sẽ khăng khít hơn so với Nhật Bản bởi nếu thống nhất, Triều Tiên sẽ gần như chắc chắn nằm dưới quyền điều hành của Seoul, trong khi hiện nay Trung Quốc đã là đối tác thương mại lớn nhất của Hàn Quốc. Cuối cùng, khi đã xích lại gần hơn với Bắc Kinh và xa rời Nhật Bản, nước Triều Tiên thống nhất sẽ chẳng có lý do gì để tiếp tục giữ chân quân Mỹ trong lãnh thổ của mình. Hay nói cách khác, không khó để nhìn ra viễn cảnh một Triều Tiên trong vòng tay của Đại Trung Hoa và thời kỳ hiện diện của bộ binh Mỹ ở Đông Bắc Á sẽ dần đi đến hồi kết.

Ví dụ trên bán đảo Triều Tiên đã cho thấy biên giới đất liền của Trung Quốc mang lại nhiều cơ hội tiềm năng hơn là mối đe dọa. Như Mackinder đã kết luận, Trung Quốc có khả năng sẽ phát triển thành một cường quốc cả trên biển và đất liền, ít nhất sẽ đủ sức làm lu mờ Nga tại khu vực lục địa Á-Âu. Nhà khoa học chính trị John Mearsheimer từng viết trong cuốn “The Tragedy of Great Power Politics” [Bi kịch của chính trị cường quốc]: “Những quốc gia nguy hiểm nhất trong hệ thống quốc tế là những cường quốc lục địa có trong tay lực lượng quân đội khổng lồ.” Đây có thể là nguyên nhân chúng ta phải e ngại tầm ảnh hưởng của Trung Quốc, bởi quốc gia này đang ngày càng trở thành một cường quốc lục địa. Tuy nhiên, Trung Quốc chỉ khớp với mô tả của Mearsheimer một phần, vì dù quân đội quốc gia sở hữu đến 1.6 triệu binh lính, lực lượng này vẫn khó có thể phát triển được khả năng viễn chinh trong những năm tới. Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) từng ứng phó với trận động đất Tứ Xuyên 2008, giải quyết vụ bạo động sắc tộc gần đây ở Tây Tạng và Tân Cương và cả thách thức an ninh từ Olympic Bắc Kinh 2008. Tuy nhiên, theo Abraham Denmark, thuộc Trung tâm An ninh Hoa Kỳ Mới [Center for a New American Security], những thành quả trên chỉ cho thấy PLA đủ khả năng di chuyển lực lượng trong phạm vi đại lục Trung Quốc, chứ vẫn chưa thể vận chuyển quân nhu và các loại vũ khí thiết bị hạng nặng ở một mức độ cần thiết cho các cuộc triển khai quân sự [ở nước ngoài]. Nhưng đạt được khả năng này hay không có lẽ cũng không quan trọng, vì dù sao việc PLA vượt qua biên giới Trung Quốc cũng khó có thể xảy ra trừ trường hợp có tính toán sai lầm (nếu có thêm một cuộc chiến tranh khác với Ấn Độ) hoặc khi cần lấp chỗ trống (nếu chế độ Bắc Triều Tiên sụp đổ). Trung Quốc vẫn có thể lấp đầy các khoảng trống quyền lực ở những vùng biên giới tiếp giáp bằng những biện pháp dân số và đầu tư doanh nghiệp mà không cần dùng đến một lực lượng bộ binh viễn chinh theo sau bảo vệ.

Sức mạnh chưa từng thấy trên đất liền của Trung Quốc phần nào nhờ công đóng góp của các nhà ngoại giao, những người những năm gần đây luôn phải làm việc không ngửng nghỉ để giải quyết hàng loạt tranh chấp biên giới với các nước cộng hòa Trung Á, Nga và những láng giềng khác (Ấn Độ là một ngoại lệ đáng chú ý). Tầm quan trọng của sự thay đổi này là rõ ràng. Đã không còn thời kỳ một quân đội hùng hậu luôn ngấp nghé Mãn Châu; trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, sự hiện diện đáng ngại này đã buộc Mao phải đổ dồn ngân sách quốc phòng của Trung Quốc cho lực lượng bộ binh và sao lãng hải quân. Vạn Lý Trường Thành là một bằng chứng cho lịch sử luôn phải vật lộn với những cuộc xâm lược trên đất liền dưới nhiều hình thức của Trung Quốc từ thời xa xưa. Nhưng giờ đây tất cả đã là quá khứ.

Dần vững vàng trên biển

Nhờ tình hình thuận lợi trên đất liền, Trung Quốc giờ đây có thể tự do tập trung xây dựng một lực lượng hải quân hùng hậu. Nếu như với các quốc gia nhỏ ven biển và các đảo quốc theo đuổi phát triển sức mạnh trên biển là điều tất yếu thì làm như vậy lại là một điều xa xỉ đối với những cường quốc lục địa lâu năm như Trung Quốc. Riêng trường hợp Trung Quốc, xa xỉ phẩm này có thể không quá khó đạt được khi địa hình bờ biển cũng thuận lợi không kém so với đất liền. Phần lãnh thổ của nước này chiếm hầu hết đường bờ biển Đông Á trong cả vùng ôn đới và nhiệt đới của Thái Bình Dương và biên giới phía nam Trung Quốc cũng đủ gần với Ấn Độ Dương để có thể kết nối với nhau bằng những tuyến đường bộ và ống dẫn nhiên liệu trong tương lai. Trong thế kỷ XXI, Trung Quốc sẽ mở rộng quyền lực cứng của mình ra thế giới bên ngoài chủ yếu bằng lực lượng hải quân.

Tuy nhiên, quốc gia này phải đối diện với một môi trường trên biển chông gai hơn nhiều so với trên đất liền. Hải quân Trung Quốc gần như không nhìn thấy được nhiều triển vọng nào khác ngoài những khó khăn trong khu vực mà nước này gọi là “chuỗi đảo thứ nhất”, gồm bán đảo Triều Tiên, đảo Kuril, Nhật Bản (bao gồm quần đảo Ryukyu), Đài Loan, Philippines, Indonesia, và Australia. Ngoại trừ Australia, tất cả những địa điểm còn lại đều có nguy cơ trở thành ngòi nổ xung đột. Đến nay, Trung Quốc đã bị vướng vào nhiều tranh chấp về chủ quyền ở những vùng đáy đại dương giàu năng lượng ở biển Hoa Đông và Biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải), cụ thể là với Nhật Bản ở đảo Điếu Ngư/Senkaku, với Philippines và Việt Nam ở Trường Sa. Những tranh chấp này tuy có thể giúp Bắc Kinh kích động chủ nghĩa dân tộc trong nước, nhưng với các nhà chiến lược hải quân, viễn cảnh trên biển này lại không mấy sáng sủa. Như mô tả của James Holmes và Toshi Yoshihara từ Học viện Hải chiến Hoa Kỳ [US Naval War College], chuỗi đảo thứ nhất là một dạng “Vạn Lý Trường Thành ngược”, tức là giống như một vòng vây hiệu quả của các đồng minh Mỹ, với mỗi bên đóng vai trò như một tháp canh giám sát và thậm chí có thể ngăn chặn Trung Quốc tiếp cận với Thái Bình Dương.

Phản ứng của Trung Quốc trước cảm giác bị giam hãm này đôi khi rất quyết liệt. Sức mạnh trên biển thường ôn hòa hơn so với trên bộ, bởi hải quân không thể một mình xâm chiếm những vùng rộng lớn và nhiệm vụ phải đảm nhận không đơn thuần là chiến đấu (ví dụ như bảo vệ hoạt động giao thương). Do đó, người ta hẳn đã trông chờ Trung Quốc sẽ ôn hòa như những quốc gia biển trước đó, điển hình là Venice, Anh, hay Mỹ, và cũng như các nước này, sẽ tự quan tâm hàng đầu tới việc bảo vệ sự ổn định của hệ thống hàng hải, bao gồm cả lưu thông thương mại tự do. Nhưng Trung Quốc lại không tự tin đến như vậy. Do vẫn chưa là một cường quốc biển vững vàng, quốc gia này nhìn nhận đại dương dưới góc nhìn lãnh thổ, ngay từ cách gọi “chuỗi đảo thứ nhất” và “chuỗi đảo thứ hai” (gồm các vùng lãnh thổ Guam và quần đảo Bắc Mariana của Mỹ) đã cho thấy người Trung Quốc coi đây là những không gian đảo mở rộng của lãnh thổ Trung Quốc rộng lớn. Với cách tính toán theo kiểu “tổng tất cả bằng không” như vậy với những vùng biển gần kề, các nhà chỉ huy hải quân Trung Quốc đang cho thấy dấu hiệu đi theo học thuyết hiếu chiến của chiến lược gia hải quân Mỹ thời kỳ đầu thế kỷ XX Alfred Thayer Mahan về ủng hộ kiểm soát biển và các cuộc chiến mang tính quyết định. Tuy nhiên, họ vẫn chưa sở hữu lực lượng hải quân đủ mạnh để áp dụng học thuyết này, và hệ quả của sự chênh lệch giữa tham vọng và tiềm lực là một số sự cố vụng về trong vài năm gần đây. Vào tháng 10/2006, một tàu ngầm Trung Quốc bám theo tàu USS Kitty Hawk và sau đó nổi lên trong tầm bắn ngư lôi của tàu Mỹ. Vào tháng 11/2007, tàu Trung Quốc đã từ chối cho đội tàu sân bay Kitty Hawk tiến vào Cảng Victoria khi tàu này đang tìm nơi neo đậu tránh biển động và thời tiết xấu. (Dù vậy Kitty Hawk có ghé thăm Hong Kong năm 2010). Đến tháng 3/2009, một nhóm nhỏ tàu hải quân của PLA đã đe dọa tàu thăm dò của Mỹ USNS Impeccable khi tàu này đang hoạt động công khai bên ngoài ranh giới lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc ở Biển Đông, chặn đường tàu và làm động tác giả đâm tàu. Đây là những hành động không phải của một cường quốc chín chắn, mà mới chỉ của một cường quốc chưa trưởng thành.

Thái độ hung hăng trên biển của Trung Quốc cũng được thể hiện qua những hợp đồng mua vũ khí. Bắc Kinh đang phát triển khả năng bất đối xứng với mục tiêu ngăn chặn Hải quân Mỹ tiến vào Biển Hoa Đông và những vùng biển ven Trung Quốc. Trung Quốc đã hiện đại hóa hạm đội tàu khu trục của mình và có kế hoạch sở hữu một hoặc hai chiếc tàu sân bay nhưng sẽ chưa thể có được tất cả các loại tàu chiến. Thay vào đó, nước này đã tập trung vào xây dựng các chủng loại mới của tàu ngầm thông thường, tàu ngầm tấn công hạt nhân và thậm chí tàu ngầm tên lửa đạn đạo. Theo Seth Cropsey, nguyên trợ lý thứ trưởng Hải quân Mỹ, và Ronald O’Rourke thuộc Bộ phận nghiên cứu thuộc Quốc hội, trong vòng 15 năm tới, Trung Quốc có thể sở hữu một lực lượng tàu ngầm lớn hơn của Hải quân Hoa Kỳ, vốn hiện đang có 75 tàu ngầm đang được triển khai. Không những vậy, Cropsey cho rằng, hải quân Trung Quốc có kế hoạch sử dụng các loại radar tầm xa, vệ tinh, mạng lưới định vị sóng âm dưới đáy biển, và các hoạt động chiến tranh mạng nhằm phục vụ các tên lửa đạn đạo chống tàu (ASBM). Mục tiêu cuối cùng của những tiến bộ công nghệ này song song với sự phát triển nhanh chóng của hạm đội tàu ngầm Trung Quốc là nhằm ngăn chặn khả năng tiếp cận dễ dàng của Hải quân Hoa Kỳ vào những khu vực quan trọng phía Tây Thái Bình Dương.

Để thúc đẩy nỗ lực kiểm soát các vùng nước tại Eo biển Đài Loan và biển Hoa Đông, Trung Quốc cũng đang cải thiện khả năng tác chiến mìn của mình, mua sắm các máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư của Nga, và triển khai khoảng 1.500 tên lửa đất đối không dọc bờ biển. Thêm vào đó, song song với việc đặt hệ thống cáp quang dưới lòng đất và dịch chuyển các lực lượng phòng thủ vào sâu trong lục địa phía Tây nhằm tránh tầm bắn tên lửa hải quân của những kẻ thù tiềm tàng, Trung Quốc còn đang phát triển một chiến lược tấn công nhằm tiêu diệt các tàu sân bay, biểu tượng sức mạnh của Mỹ.

Tất nhiên, Trung Quốc trong tương lai gần sẽ không tấn công tàu sân bay Mỹ, và nước này vẫn còn một con đường dài phía trước nếu muốn trực diện thách thức sức mạnh quân sự Hoa Kỳ. Nhưng mục tiêu của Trung Quốc là phát triển những năng lực này dọc đường bờ biển nhằm dập tắt ý định của Hải quân Hoa Kỳ tiếp cận theo ý muốn vào khu vực giữa chuỗi đảo thứ nhất và bờ biển Trung Quốc. Vì khả năng định hình hành vi của đối thủ là yêu cầu cốt lõi của quyền lực, đây sẽ là bằng chứng cho thấy một Đại Trung Hoa đang được hiện thực hóa trên biển giống như trên đất liền.

Yếu tố Đài Loan

Sự bất an trên biển

Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Yeu to dia ly cua quyen luc TQ.pdf

[1] Theo Karl Wittogel, bất cứ một nền văn minh nào có hệ thống nông nghiệp đều dựa vào cấu trúc thủy lợi rộng lớn do chính quyền điều hành độc quyền. Việc cung cấp nước đầy đủ (cho tưới tiêu) và khả năng bảo vệ mùa màng (khỏi lũ lụt) mang lại quyền lực tuyệt đối cho chính quyền đối với nền kinh tế và từ đó là cả xã hội nông nghiệp). Cụm từ này dùng để nói về các nền văn minh như Ai Cập, Lương Hà, Trung Hoa…, để phân biệt với phương Tây – ND.


ÁC QUỶ SẼ THẤT NGHIỆP KHI FIDEL CASTRO CHẾT (Maciej Stasinski - Nhật báo WYBORCZA Ba Lan)





Maciej Stasinski
Nhật báo WYBORCZA  Ba Lan

Đinh Minh Đạo dịch
 Chi tiết
Được đăng ngày Chủ nhật, 30 Tháng 6 2013 14:21

Lời nói đầu: Guillermo Farinas là một trong những nhà đối lập hàng đầu của Cuba. Từ một sỹ quan quân đội cộng sản, ông đã dấn thân trên con đường đấu tranh chống độc tài đấy gian nan, khúc khủyu. Ông đã đặt cả sinh mạng của mình vào cuộc đối đầu với chế độ cộng sản.

Guillermo Farinas là con của một nhà cách mạng. Cha ông đã tham gia cuộc phiêu liêu quân sự của Che Guevara trong cuộc nội chiến của Congo. Từ thời niên thiếu, ông đã được đào tạo để trở thành kẻ trung thành với chế độ của anh em nhà Fidel Castro. Tuổi trẻ của Guillermo Farinas đã khởi đầu từ trường võ bị.

Guillermo Farinas đã từng làm nhiệm vụ canh phòng trong khu nghỉ mát sang trọng Managua, thuộc ngoại ô Havana. Nơi đây, những quan chức của chính quyền Cuba thường ăn nhậu, hưởng lạc cùng các "đồng chí” trong đường dây buôn bạch phiến từ Colombia và Mehico. Năm 1980, khi canh phòng ga tầu hỏa Havana, ông đã chứng kiến cảnh những người dân Cuba tràn vào sứ quán Peru xin tị nạn chính trị, Castro đã cho phép những ai muốn ra đi. Một trám hai mươi lăm (125) nghìn người Cuba đã rời bỏ tổ quốc, nhưng số người muốn ra đi là 3 triệu người. Đây là con số mà chế độ Castro không bao giờ dám công bố.

Ông bắt đầu có những nghi ngờ đối với chế độ Fidel Castro khi ông tham chiến tại Angola. Qua 11 tháng năm 1981-1982, ông đã chứng kiến những người lính Cuba đã tàn sát  dân làng, họ "giúp đỡ” những người cộng sản anh em Angola, thực hiện ý đồ của người anh cả Liên Xô, gieo trồng những hạt giống cộng sản trên lục địa đen.

Sau khi trở về từ Angola, Guillermo Farinas đươc cử đi học Liên Xô. Trên đường đến Liên Xô, ông cùng 200 học viên quân sự Cuba được dừng chân ở Tiệp Khắc để nghe thuyết trình vể "phong trào phản cách mạng” Công Đoàn Đoàn Kết tại Ba Lan.
Ba năm tại học viện quân sự của Liên Xô, ông đã được chứng kiến tham nhũng của các quan chức và sự bần cùng của chế độ cộng sản Xô Viết.

Từ Liên Xô trở về, ông đã thấy một xã hội Cuba thật tồi tệ. Những tên tay sai tin cậy nhất của Fidel Castro trong ngành tình báo, hàng ngày tụ tập cùng với gái đẹp, rượu rum, whisky. Họ ăn chơi cạnh những bể bơi, chỉ đạo, ngợi khen các chiến dịch bí mật chống lại Mỹ và Chile. Còn Fidel Castro thì ngủ với những người vợ của các "đồng chí”, những người đang làm đại sứ ở các nước xa xôi.

Sau khi rời quân đội, Farinas nghiên cứu tâm lý học. Năm 1989, Fidel Castro đã sát hại hai người bạn chí thân của mình, hai quân nhân ưu tú, tướng Arnaldo Ochoe và đại tá Tony de la Guardia. Cũng trong năm này, Guillermo Ferinas đoạn tuyệt với chế độ Fidel Castro, ông trở thành nhà đối lập. Từ đây ông bắt đâu cuộc đấu tranh không khoan nhượng đối với chế độ độc tài cộng sản. Ông trải qua 11 năm trong nhà tù, đã hơn 20 lần tuyệt thực để phản đối chế độ lao tù và bênh vực những người đấu tranh cho tự do, dân chủ.

Năm 2010 Farinas đã tuyệt thực đến gần kề cái chết, ông đòi hỏi chính quyền phải thả hết các tù nhân chính trị. Sau 135 ngày nhịn ăn phản đối của ông, Castro đã phải nhượng bộ, thả các tù nhân chính trị.

Quốc hội của Liên Hiệp Châu Âu (EU) đã trao tặng Guillermo Farinas giải thưởng nhân quyền mang tên nhà bác học Nga Andréi Sakharov. Tháng 05-2013, chính quyền Cuba đã cho phép Farinas ra nước ngoài, ông đã đến Brussels để nhận giải thưởng đã chờ đợi ông từ lâu.

Guillermo Farinas cùng một số nhà đối lập của Cuba đã đến Ba Lan theo lời mời của Viện Lech Walesa. Nhân dịp này, phóng viên Maciej Stasinski của nhật báo WYBORCZA đã phỏng vấn Farinas. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc bài phỏng vấn này.
Qua bài phỏng vấn, chúng ta thấy được tầm nhìn và cách tổ chức đấu tranh của những người đấu tranh chống chế độ độc tài cộng sản Cuba. Họ cũng đi qua những bước phân tán, hành động đơn lẻ. Họ lập ra nhiều tổ chức. Các tổ chức này quá nhỏ yếu, lại không thể kết hợp hoạt động vì một mục đích chung. Giờ đây họ đã nhận ra, muốn thắng được chế độ độc tài cộng sản,  họ cần  có một mặt trận (một mặt trận chứ không phải một đảng) đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân cùng tham gia đấu tranh. Thiết tưởng, đây cũng là một bài học cho phong trào đấu tranh chống lại chế độ độc tài cộng sản, mang lại tự do dân chủ cho Việt Nam chúng ta.

*

Maciej Stasinski: Tại sao chính quyền Cuba cho phép các nhà đối lập ra nước ngoài? Hai tuần trước đây, blogger Yoani Sanchez đã đến đây để nhận giả thưởng nhân vật năm 2013 của nhật báo Wyborcza. Hôm nay thì đến ông.

Guillermo Farinas: Chế độ độc tài muốn đánh bóng hình ảnh của mình trước các quốc gia dân chủ phương Tây. Họ sẽ cần nguồn tài chính và đầu tư từ Mỹ và châu Âu. Họ hiểu rằng, Venezuela, chiếc phao cứu nạn cuối cùng cho chế độ cộng sản của Cuba sẽ sụp đổ. Họ chuẩn bị cho kịch bản, khi hàng tỷ đô la từ Venezuela không còn chảy sang Cuba nữa. Chế độ độc tài Cuba đã từ lâu biết rằng, Hugo Chavez sẽ chết vì ung thư và cái gì đang chờ đợi họ.

Chủ nghĩa cộng sản Cuba vẫn đang được những người theo cánh tả ở châu Mỹ Latinh ủng hộ, nhưng điều đó chưa đủ, nền kinh tế của họ cần được cấp cứu khẩn cấp. Vì vậy họ thử nghiệm một hành động để tranh thủ cảm tình của Mỹ và EU. Họ thả các tù chính trị, cho phép các nhà đối lập ra nước ngoài.

Nhưng trước đây họ đã phớt lờ những yêu sách này của phương Tây.

- Nhưng giờ đây Fidel đã không còn lãnh đạo nữa, Raul đã thay thế. Đó là hai con người hoàn toàn khác nhau. Fidel coi mình như một ông thánh, tự quyết định mọi việc, không cần giải thích cho bất cứ ai, hậu quả là những người thừa hành phải trả giá. Tự cho mình là người chỉ huy thiên tài, Fidel chỉ yêu có bản thân mình. Ác quỷ sẽ mất việc, khi Fidel chết.
Raul là một con người bình thường, nhưng rất coi trọng chức vụ. Tàn nhẫn nhưng biết nghe ngóng, làm việc theo tập thể, yêu quý gia đình. Trong 6 năm đã kiên trì thay thế tay chân của Fidel bằng người của mình. Hiện nay nắm giữ chặt chẽ hai bộ quốc phòng và nội vụ.

Fidel sẵn sàng đón nhận sự bùng nổ của xã hội. Đối với đương sự, điều quan trọng là quyền lực cá nhân chứ không phải tương lai của đất nước.

Raul muốn lợi dụng thời gian, chờ cho đến khi ông anh chết, sẽ nhượng bộ để giữ chính quyền. Vài năm gần đây, chế độ độc tài đã nghiên cứu những kinh nghiêm của các nước Nga, Ukraina, Belarusia và Mehico. Họ xem xét mô hình chính quyền của các đảng trong các quốc gia nói trên. Đặc biệt họ rất quan tâm đến chủ nghĩa Putin.

Không phải mô hình Trung Quốc?

- Không, vì Trung Quốc vẫn chỉ có một đảng cầm quyền. Raul biết rằng, Cuba với mô hình Trung Quốc không thể thuyết phục được Mỹ và Châu Âu. Dân chủ hình thức và mị dân, dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền là mô hình mà Raul muồn chọn lựa. Bởi vậy , người đương chức phó thủ tướng Miguela Diaz-Canela, 51 tuổi, bàn tay chưa dính máu là người Raul chọn để kế cận.

Có ai đó giống Gorbachov?

- Không, chỉ có người giống như Aleksander Lukasenko của Belarusia. Raul Castro đã nói rằng, sau 5 năm nữa sẽ không ra ứng cử chức chủ tịch một lần nữa. Đó muốn nói đến Diaz-Canela sẽ thay thế và gửi tín hiệu đến các nhà đấu tranh cho dân chủ, đến những Kiều bào, đến thế giới: Các anh hãy chờ đợi! Đừng phiêu lưu, sau một vài năm nữa Fidel chết, chúng tôi sẽ bắt đầu công cuộc chuyển đổi được kiểm soát.

Hiện nay chính quyền còn đang xây dựng chủ nghĩa Putin. Thực hiện cải tổ một vài chính sách: cho phép người dân buôn bán nhà cửa, ô tô, sử dụng internet, điện thoại cầm tay, nông dân được canh tác cá thể. Qua đây, chính quyền muốn người dân hiểu rằng, chế độ cộng sản Cuba sẽ chuyển sang thể chế mới, mềm dẻo hơn.

Ông Guillermo Farinas trong lúc tuyệt thực
vào năm 2006 đòi quyền tiếp cận Internet

Những người đối lập sẽ làm gì trước tình hình này?

- ... Giống như cuộc đấu vật đang chờ đợi chúng tôi. Họ muốn cho rất ít, còn chúng tôi muốn tối đa, trong khả năng có thể của mình.

Đối lập đã thay đổi. Cho đến thời điểm này còn yếu, chia rẽ và rất ít tiếng tăm. Chúng tôi phải chấm dứt tình hình này. Chúng tôi phải xây dựng phong trào đối lập rộng khắp, lần đầu tiên hiện diện trong tất cả các địa phương của đất nước, dưới sự chỉ đạo có trách nhiệm. Chúng tôi phải chấm dứt tình trạng, mỗi một người đối lập là một lãnh tụ nhỏ của một đảng nào đấy và hoạt động chỉ để tồn tại và đi định cư ở nước ngoài.

Chúng tôi phải ở lại hòn đảo và sát cánh bên nhau cùng đấu tranh. Tổ chức mới LIÊN MINH YÊU NƯỚC được chỉ đạo bởi 16 người. Chúng tôi đã có 5000 hội viên, đây là một sự kiện chưa từng có ở Cuba.

Từ đâu mà có sự thay đổi này?

- Những người Cuba tự nhận ra rằng, sự phân tán sẽ không dẫn đến đâu. Đầu những năm 90, tôi đã tham gia trong 11 dự án thống nhất đối lập, tất cả đều đổ vỡ vì luôn gặp phải vấn đề khó khăn nhất, ai sẽ là người đứng đầu. Sau cái chết của Osvaldo Pai Sardinas (chủ tịch Phong Trào Giải Phóng Cơ Đốc Giáo), do an ninh gây ra trong tai nạn giao thông, đã chứng tỏ rằng, toàn bộ phong trào đối lập không thể chỉ dựa vào một người. Khi tôi được trao giải thưởng Sakharov, những người bạn ở các tổ chức đối lập khác, mong muốn củng cố phong trào đối lập nói với tôi : "Anh sẽ là lãnh tụ”. Tôi trả lời : "Sẽ không có việc đó, anh phải chịu trách nhiệm trước nhóm của anh, chúng ta phải hoạt động cùng nhau. Giải thưởng Sakharov giúp chúng ta thực hiện điều này”.

Đấu tranh là công việc chung. Chỉ khi nào chính quyền chấp nhận thương lượng, lúc đó chúng ta mới nghĩ đền việc lựa chọn người đứng đầu, theo phương pháp bầu cử dân chủ. Chúng tôi phải chuẩn bị cho thời điểm này. Khi đó, chúng tôi sẽ tập trung các nhóm lại để bàn bạc.

Lần đầu tiên, chúng tôi đã kết hợp các lực lượng đấu tranh cho dân chủ của các thế hệ khác nhau. Từ những người sáng lập đến những thanh thiếu niên ủng hộ dân chủ. Những người ở tuổi từ 60 đến 80 như : Hector Palacios, Rene Gomez Manzano, Elizardo Sanchez, Felix Bonne. Họ đã giúp đỡ những người đối lập trẻ thống nhất lại. Họ là những cố vấn, nhũng người che chở cho LIÊN MINH YÊU NƯỚC. Đó là sự thay đổi chất lượng mang đặc tính Cuba.

Nỗi sợ hãi trước đây làm tê liệt nhân dân nay đã biến mất?

- Đúng, nỗi sợ hãi đã giảm đi rất nhiều. Chúng tôi không sợ bị giết hay bị đưa vào nhà tù, nhưng chúng tôi sợ tư tưởng nóng vội, phân tán, không tập trung cho mục tiêu chính, không đấu tranh kiên trì đến chiến thắng hoàn toàn. Giờ đây, chiến thắng đang điểm từng giờ. Hãy đừng thêm một người nào rời khỏi Cuba. Chúng tôi phải vượt qua kỳ sát hạch để có giấy chứng nhận và những kinh nghiệm cho những người đi sau chúng tôi.
Các ông cần đạt tới những mục tiêu nào?

- Chúng tôi có 5 yêu cầu mang tính nguyên tắc.

Thứ nhất, thả vô điều kiện tất cả các tù nhân chính trị, hiện có 82 người. Thứ hai, chính quyền phải phê chuẩn và thực hiện Tuyên Ngôn Phổ Quát Quyền Con Người và Công Dân. Thứ ba, mọi người dân Cuba phải được tự do tiếp cận với thông tin, internet, được quyền có báo chí, truyền thông tư nhân độc lập. Thứ tư, tự do thành lập các đảng phái chính trị và các tổ chức độc lập. Thứ năm, cho phép tất cả những người Cuba ở trong nước và định cư ở nước ngoài tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của đất nước.

Tức là hòa giải với những người đã bỏ nước ra đi?

- Đúng như vậy. Tôi đã đến Miami bang Florida. Tôi đã gặp gỡ tất cả những người Cuba ở đó, từ thành phần cứng rắn đến ôn hòa. Ở mọi nơi tôi đều thấy sự đồng thuận, họ ủng hộ chúng tôi. Họ nói: "Các anh có lý, chúng tôi ủng hộ các anh, giúp đỡ các anh”
Không một ai bác bỏ những dự kiến hoặc đặt điều kiện đối với chúng tôi. Họ đặt câu hỏi, chúng tôi có yêu cầu gì đối với họ. Chúng tôi, những người đang sống trên hòn đảo hiểu rằng, chúng tôi cần phải cất cái đầu cải tổ quá nặng nề lên. Họ cũng biết như vậy. Không phải những kiều dân sẽ giải phóng cho chúng tôi, chính chúng tôi phải tự giải phóng mình, họ chỉ giúp đỡ.

Chế độ Raul Castro coi trọng các ông?

- Hiện tại thì chưa. Chế độ độc tại mong muốn yên ổn ngự trị đến năm 2018. Chúng tôi bác bỏ ý định này. Cần thiết cuối cùng là huy động lực lượng quần chúng. Những ngày ở Ba Lan, trong Viện Lech Walesa, chúng tôi mong muốn tìm hiểu, bằng cách nào mà SOLIDARNOSC (Công Đoàn Đoàn Kết) trong những năm 80 phát triển đến hàng triệu đoàn viên. Chỉ khi nào làm được như vậy, chúng tôi mới buộc chính quyền ngồi vào bàn đàm phán. Cách đây nửa năm, chúng tôi có 2000 hội viên, hiện nay hơn 5000, hết năm 2013 chúng tôi muốn có 10000.

Chúng tôi sẽ áp dụng nhiều biện pháp: tổ chức xuống đường phản đối, thành lập các nhóm nhà báo độc lập, các tạp chí in giấy và điện tử. Chúng tôi sẽ tổ chức mạng lưới phân phối báo và đĩa CD từ tay người này đến tay người khác, từ nhà này đến nhà khác. Yoani Sanchez huấn luyện những người đối lập sử dụng  internet và dự định ra tờ báo mạng hàng ngày. Chúng tôi sẽ làm chương trình bằng video và phát tán trên hòn đảo.

Càng ngày Twitter và Facebook càng phát triển rộng rãi ở Cuba. Khi công an đánh đập hoặc đóng các trang của một blogger nào đó, tin tức lan truyền với khẩu hiệu : "Chúng ta đi đến đồn công an để đòi hỏi giải thích”. Ngoài những hành động phản đối, chúng tôi phải sử dụng hình thức thuyết phục bằng lý lẽ.

Ông nói, chế độ đã phát đi tín hiệu.

- Hiện nay là thời điểm đặc biệt. Xã hội bất bình và giận dữ cao độ mà tôi chưa từng thấy. Người dân đã hết sợ hãi, chế độ độc tài chưa bao giờ yếu như hiện nay. Bắt đầu đặt sợi dây và tự thắt cổ mình. Giờ đây, họ đã ngừng nhắc đến chủ nghĩa Mark-Lenin, đến chủ nghĩa xã hội một cách triệt để, bởi họ đang thử nghiêm cải tổ tự do. Để mị dân, họ thay những người giáo điều bằng những người trung thành.

Trong lãnh đạo quân đội, có hai xu hướng. Những người trẻ muốn thương lượng sau khi Fidel chết, những người già không muốn có bất cứ một sự nhượng bộ nào vì bàn tay họ đã vấy máu. Đại diện cho hai xu hướng này là tướng trẻ Alvaro Lopez Miera và tướng già Anton Enrique Luzon Battle. Cả hai đều muốn duy trì chế độ Raul Castro. Ai sẽ thắng, chúng tôi không thể đoán trước được, nhưng chúng tôi phải chuẩn bị đối phó với cả hai trường hợp, nếu hàng loạt những nhà hoạt động của chúng tôi sẽ đi ngồi tù.

Vai trò của nhà thờ thế nào?

- Nhà thờ hiện nay đóng vai trò thật ô danh. Cách đây 3 năm hồng y Jaime Ortega và các cơ quan của nhà thờ đã muốn chiếm đoạt thành quả thả các tù chính trị. Nhà thờ đã không hoạt động gì để giúp đỡ những tù nhân đấu tranh bằng tuyệt thực. Làm lễ cầu nguyện cho Fidel Castro, nhưng từ chối làm lễ cầu nguyện cho Orlando Zapata Tamayo, một tù nhân chính trị đã tuyệt thực đến chết năm 2010. Các linh mục đã cầu nguyện cho sức khỏe của Hugo Shavez, nhưng hồng y Ortega đã cấm các linh mục làm lễ cầu nguyện cho Larua Pollan, một người lãnh đạo một tổ chức đấu tranh cho dân chủ chết.
Hồng y đã quá tuổi 75 cách đây hai năm, nhưng không về hưu. Ông đã yêu cầu giáo hoàng để tiếp tục tại vị. Chúng tôi không chấp nhận nhà thờ với một người lãnh đạo như vậy. Nhà thờ đã trở thành cơ sở hợp tác với chế độ độc tài.

Ông đã từng là một người trung thành của quân đội, con người của chiến tranh, nay ông tuyên bố con đường đi đến thương lượng hòa bình với chế độ độc tài?

- Chủ nghĩa Mác-Lenin đã chỉ dậy cho tôi biết căm thù. Khi tôi rời bỏ chế độ, tôi trở thành người kitô giáo thực hành. Tôi đã đọc kinh thánh, tôi hiểu rằng, phải biết tha thứ cho kẻ thù của mình, không có con đường nào khác. Tôi không muốn trả thù, tôi muốn phải giải quyết mọi việc theo luật pháp.

Nếu tôi không thay đổi, giờ đây tôi có thể là một đại tá, một kẻ vô liêm sỉ, một kẻ mà tương lai của những người đồng hương, của đất nước không hề làm mình bận tâm. Hoặc không đủ dũng khí để trở thành người đối kháng. Tôi biết như vậy vì tôi có những người bạn là đại tá, cùng lứa tuổi với tôi, họ cũng đã nói với tôi như thế.

Warsaw tháng 06/2013
Maciej Stasinski

Đinh Minh Đạo dịch
Nguồn: Nhật báo WYBORCZA  Ba Lan




View My Stats