Mai Xương Ngọc chuyển ngữ
Friday June 28th, 2013
Đã gần một tuần lễ xảy ra nạn lạm dụng các nguyên tắc dân
chủ bởi các nhà lãnh đạo thường được cho là dân chủ. Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep
Tayyip Erdogan đã sử dụng cảnh sát chống bạo động để giải tán những người biểu
tình ôn hòa tại Quảng Trường Taksim của Istanbul, những người bị ông ta lên án
là “một số kẻ cướp phá” và “một vài kẻ ăn bám”. Thượng viện Ai Cập đã thông qua
một đạo luật hạn chế sự hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, khiến cho các
nhóm xã hội dân sự Ai Cập khẳng định nó “đặt nền tảng cho một nhà nước cảnh sát
mới” dưới quyền của Tổng thống Mohamed Morsy, người được bầu lên một cách dân
chủ. Hàng trăm ngàn người Brazil đã xuống đường để phản đối gần như mọi thứ –
nhưng chính phủ lại tỏ ra bối rối hơn là giận dữ.
Điểm chung của những sự kiện diễn ra tại Ai Cập và Thổ
Nhĩ Kỳ là cách bóp méo đặc biệt về nền dân chủ: chủ nghĩa độc đoán thông qua
bầu cử. Cả Erdogan và Morsy đối xử với những người đi theo đảng của họ – những
kẻ trong mọi trường hợp có lẽ không tạo thành đa số tuyệt đối của đất nước –
như là “nhân dân” để nhân danh ấy mà nắm quyền cai trị, trong khi đối xử với
đối thủ của họ như những kẻ thù, những kẻ tạp nham, những kẻ không có quyền
công dân sống dựa vào các ý tưởng nước ngoài hoặc tài trợ từ nước ngoài. Nhưng
họ hầu như không bao giờ đơn độc. Tổng thống Nga Vladimir Putin đã thiết lập
một chế độ độc tài trên cơ sở chủ nghĩa quốc quyền thông qua bầu cử, giống như
Hugo Chávez của Venezuela trước khi chết. Điểm khác biệt là không ai ngộ nhận
rằng nước Nga hay Venezuela là các nền dân chủ; còn sự hỗn loạn ở Thổ Nhĩ Kỳ và
Ai Cập đang đe dọa một điều gì đó đáng quý, hoặc ít nhất là đáng hy vọng.
Cả Erdogan và Morsy đều không đi xa như Putin hay Chávez,
mặc dù Morsy đã gần vươn tới khi ông ta ban hành một sắc lệnh bãi bỏ việc xét
lại các quyết định của ông ta về mặt pháp lý vào cuối tháng 11, và theo đó tạm
thời thâu tóm mọi quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp vào trong tay ông ta.
(Ông ta bị buộc phải rút lui vào tháng sau đó.) Tuy nhiên, cả hai đều có vẻ thực
sự tin chắc rằng bản thân họ, và chỉ có họ, tượng trưng cho ý chí của nhân dân.
“[Bọn họ nói rằng] Tayyip Erdogan là một kẻ độc tài”, Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ nói
về bản thân ông ta ở ngôi thứ ba trong một bài phát biểu trên truyền hình. “Nếu
họ gọi người phục vụ nhân dân là kẻ độc tài, thì tôi không còn biết nói bất cứ
điều gì nữa.” Đùa giỡn với ngọn lửa của chủ nghĩa dân túy – nhưng rất khéo léo
– ông Erdogan đã kích động các cuộc biểu tình ủng hộ chế độ với quy mô thậm chí
còn lớn hơn các cuộc biểu tình ở Quảng trường Taksim, nơi các đối thủ chỉ trích
ông ta là một kẻ chuyên quyền mới xuất hiện.
Erdogan và Morsy, Chavez và Putin – đều là những kẻ mắc
chứng hoang tưởng tự đại, những kẻ không thể hoặc không muốn phân biệt giữa “ý
chí của nhân dân” với ý chí của bản thân họ. Nhưng đây cũng là một căn bệnh của
các nền dân chủ non yếu, khi các quyền lợi còn quan trọng đến mức cả phe lãnh
đạo cũng như phe đối lập thường cho rằng thỏa hiệp là phản bội lại lợi ích quốc
gia. Điều này cũng đúng ngay cả trong những thập kỷ đầu tiên của nền cộng hòa
Mỹ. Các đối thủ của ông John Adams buộc tội ông ta tìm cách khôi phục lại chế
độ quân chủ, rồi đến khi con trai của Adams, ông John Quincy Adams, giữ chức vụ
Tổng thống, cả hai đối thủ lớn là Andrew Jackson cùng Phó Tổng thống John C.
Calhoun khẳng định rằng ông này đang lập kế hoạch lật đổ Hiến pháp đồng thời áp
đặt chế độ độc tài. Ở mức tương đương, ông Adams cùng các đồng minh của ông ta
cũng tin chắc rằng nếu Jackson được bầu, ông ta sẽ phá hủy Liên minh. Khái niệm
về sự khác biệt chính đáng giữa các quan điểm đã hình thành rất chậm.
Các quốc gia may mắn có được một Nelson Mandela hay George Washington nhận được một bài học lâu dài trong cách sử dụng quyền lực dân chủ. Còn khi nào các nền dân chủ nổi lên từ một loạt các cuộc thương lượng giữa phe cải cách và phe thống trị, như ở Đông Âu sau sự sụp đổ của bức tường Berlin, tất cả mọi người đều có cơ hội để học hỏi nghệ thuật của sự thỏa hiệp. Nhưng khi quyền lực bị thâu tóm bằng cách mạng, như ở Ai Cập và những nơi khác trong thế giới Ả Rập, có một quy tắc mà ai cũng biết, đó là kẻ chiến thắng sẽ vơ cả. Bởi vậy, làm thế nào để các nhà lãnh đạo học cách đại diện cho cả một dân tộc thay vì chỉ cho bè phái của những người đã bỏ phiếu cho họ?
Họ sẽ không biết, đương nhiên – nhưng cử tri có thể dạy
cho họ một bài học. Người Serbia đoàn kết lại vào năm 2000 để đánh bại nhà độc
tài theo đuổi chủ nghĩa dân túy Slobodan Milosevic, kẻ đã bịa đặt đa số phiếu
chính trị trên cơ sở của chủ nghĩa dân tộc nguy hiểm. Nhưng điều này đòi hỏi
phải có một phe đối lập đoàn kết và có kế hoạch, điều không thể tìm thấy trong
Đảng Cộng hòa Nhân dân theo đường lối Ataturk cũ của Thổ Nhĩ Kỳ hoặc phe đối
lập bị chia rẽ sâu sắc trước nhóm Anh em Hồi Giáo cầm quyền tại Ai Cập. Nhưng
không chỉ có đảng cầm quyền, mà còn là toàn bộ nền văn hóa chính trị của các
nền dân chủ mới thường giao quyền cho chủ nghĩa độc đoán thông qua bầu cử.
Văn hóa có ý nghĩa quan trọng, và các quy tắc cũng vậy.
Trong cuốn Các Mô hình Dân chủ, nhà khoa học chính trị Arend Lijphart lập luận
rằng các thể chế dân chủ hình thành hai mô hình cơ bản: mô hình chủ trương đa
số quyết định, như người Anh với nội các chính phủ độc đảng chiếm quyền quyết
định, hoặc “mô hình đồng thuận” để quyền lực được thực hiện thông qua các liên
minh. Lijphart quan sát thấy rằng trong các xã hội đồng nhất, mọi công dân đều
có thể cảm thấy được đại diện một cách hợp lý trong một hệ thống theo mô hình
đa số quyết định, trong khi cũng mô hình này ở các quốc gia bị chia rẽ sâu sắc
bởi giai cấp hay bản sắc báo hiệu sự xuất hiện của “chủ nghĩa độc tài bởi đa số
quyết định và xung đột dân sự.” Ông ta ủng hộ cho các quy tắc bầu cử đảm bảo
cách đo tỷ lệ đại diện, các liên minh chính phủ, cơ chế lập pháp lưỡng viện có
thẩm quyền, sự phân quyền chính trị. Lijphart tuyên bố rằng mô hình đồng thuận
tối đa hóa tính hợp pháp dân chủ mà vẫn giữ hiệu quả.
Các quy tắc bầu cử giúp giải thích sự khác biệt giữa cách
phản ứng của hai nền dân chủ trẻ năng động là Thổ Nhĩ Kỳ và Brazil trước hàng
loạt các cuộc biểu tình đường phố. Trong khi Erdogan đã biến kẻ thù của mình
thành quỷ, thì nữ Tổng thống Dilma Rousseff của Brazil ca ngợi những người biểu
tình vì đã đánh thức quốc gia chú ý đến những thiếu sót. Brazil cũng đang phải
đối mặt với một cuộc khủng hoảng, nhưng không phải là một cuộc khủng hoảng về
quyền đại diện như ở Thổ Nhĩ Kỳ. Larry Diamond, một học giả hàng đầu về dân chủ
tại Đại học Standford, chỉ ra rằng cả Rousseff và người tiền nhiệm giống
Erdogan của bà ta, ông Luiz Inacio “Lula” da Silva, đã phải thương lượng về
chính trị nhiều hơn so với ông Erdogan bởi họ lãnh đạo dựa trên các liên minh
trong khi ông Erdogan kiểm soát đa số trong nghị viện. Đến lượt lý do cho điều
này là vì luật pháp Thổ Nhĩ Kỳ loại bỏ các đảng phái không giành được nhiều hơn
10% số phiếu phổ thông ra khỏi nghị viện. Hệ thống của Thổ Nhĩ Kỳ tạo điều kiện
cho sự bốc đồng tồi tệ nhất của Erdogan. Cộng tác với các đối thủ có thể buộc
ông ta phải nhận ra một vài bài học đắt giá.
Nền dân chủ được củng cố qua sự kết hợp giữa những quy
tắc tốt đẹp và những thói quen tốt lành – giữa hiến pháp và văn hóa. Nhưng
chúng thường thất bại trước khi đạt được điều đó, và cả một tập hợp con gồm các
tài liệu học thuật phân tích những trường hợp bị thụt lùi. (Mali là ví dụ gần
đây nhất.) Gần như không thể hình dung được một kịch bản xảy ra ở Ai Cập, theo
đó việc quân đội giành lại quyền chỉ huy sau những cuộc xung đột không ngừng
giữa ông Morsy, phe đối lập thế tục, và giới tư pháp lại kích động nhiều hỗn
loạn, bạo lực, cũng như làm tê liệt nền kinh tế hơn nữa so với những gì đã diễn
ra. Trên thực tế, hành vi độc đoán của kẻ này tạo ra hành vi độc đoán của kẻ
khác, nền dân chủ thất bại và Ai Cập quay trở lại một dạng mới của hiện trạng
trước đó – như Pakistan là một ví dụ đã trải qua nhiều lần.
Nhưng đó không phải là kịch bản có khả năng xảy ra cao
nhất đối với Ai Cập, và chắc chắn cũng không phải cho Thổ Nhĩ Kỳ. Thời đại mà
người dân chấp nhận, càng không nói đến chuyện đòi hỏi, quay trở lại chế độ
chuyên chế đang sắp kết thúc. Những gì chúng ta thực sự nhìn thấy trong các
cuộc biểu tình quần chúng ở Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil, cũng như ở các nơi khác
là một thái độ không chấp nhận một thỏa thuận ngầm rằng quyền công dân trong
nền dân chủ bị giới hạn trong quyền bỏ phiếu – bên cạnh một tầng lớp chính trị
bị tê liệt vì không biết làm thế nào để đáp ứng lại những yêu cầu này. “Cứ bốn
năm một lần, chúng tôi lại tổ chức bầu cử và quốc gia này tự đưa ra lựa chọn
cho nó,” ông Erdogan giảng giải cho người dân của mình như vậy. Đó là sai lầm.
Chủ nghĩa độc đoán thông qua bầu cử sẽ không hoạt động theo cách đã từng được
tiến hành trước kia bởi vì có quá nhiều người sẽ không chấp nhận nó. Chế độ độc
tài của đa số, hoặc của đa số giả định, sẽ tiếp tục tồn tại ở một vài nơi, như
ở nước Nga. Nhưng những ngày tháng của nó đang được đếm ở Venezuela, trong khi
tôi không thấy nó diễn ra ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Vấn đề thực sự ở chỗ là các nền dân chủ không sẵn sàng
đáp ứng sẽ gây ra nhiều cuộc biểu tình phản đối hơn, dẫn đến việc kích động
nhiều hành động phản ứng lại, khiến cho niềm hy vọng và mục tiêu chung ở các
quốc gia như Brazil và Thổ Nhĩ Kỳ sẽ nhường chỗ cho hận thù và chia rẽ, gây sụt
giảm đầu tư và năng suất lao động, bởi vậy lại càng gây ra nhiều hận thù và
chia rẽ. Trong thế giới Ả Rập, dường như chỉ có Tunisia đang thu hẹp sự chia rẽ
giữa các nhóm để tạo nên một trật tự khả thi mới; Ai Cập và Libya đang tiến đến
những hình thái dân chủ rối loạn chức năng khác nhau. Các quốc gia này cần thời
gian để rèn luyện những thói quen mới, đồng thời tạo ra những quy tắc tốt hơn.
Nhà tư tưởng chính trị Samuel Huntington đã quan sát thấy rằng nền dân chủ tại
Hoa Kỳ đã không hoàn toàn được củng cố cho đến khi phe Cộng hòa của ông Adams
bị thua trước phe Dân chủ của Jackson, để sau đó những người theo chủ trương
của Jackson lần lượt nhường chỗ cho phe Whigs. Thay đổi chế độ là thuốc bổ cho
một nền dân chủ. Bởi vậy, chúng tôi hy vọng ông Erdogan cũng như ông Morsy sẽ
chứng tỏ rằng họ không phải là Putin hay Chávez.
[*] James Traub là một thành viên của Trung tâm Hợp tác
Quốc tế. Mục “Điều khoản Cam kết” của ông trong tờ báo ForeignPolicy.com được
cập nhật hàng tuần. Theo dõi ông trên Twitter: @JamesTraub1.
Nguồn: James Traub, The
Tyranny of the Majority, Foreign Policy, ngày 21 Tháng Sáu 2013.
Bản Tiếng Việt © 2013 The Pacific Chronicle
No comments:
Post a Comment