Wednesday 30 April 2014

30 THÁNG 4 : VÀI ĐIỀU CẦN ĐƯỢC NÓI RÕ (Nguyễn Gia Kiểng - Thông Luận)




Cập nhật lần cuối ngày Thứ tư, 30 Tháng 4 2014 14:48

Nhân kỷ niệm 39 năm ngày 30 tháng 4

Thảm kịch của Việt Nam  có một tên gọi và một nguyên nhân. Tên gọi đó là chế độ cộng sản, nguyên nhân đó là vì Đảng Cộng sản Việt Nam đã thắng. Ngày nay không còn một người Việt Nam lương thiện nào có thể chối cãi rằng nếu không có ĐCSVN thì ngày nay đất nước đã khá hơn nhiều rồi. Không mất Bản Giốc, Nam Quan, Trường Sa, Hoàng Sa và cũng không làm hơn năm triệu người thiệt mạng. Đảng cộng sản là một tai họa.

*
Một lần nữa, lần thứ 39, chúng ta kỷ niệm ngày 30/4/1975, ngày đất nước chấm dứt nội chiến và thống nhất.

Rất nhiều điều đã được nói và viết ra về cuộc chiến này, tuy vậy người ta sẽ không bao giờ nói hết được những điều cần nói. Cuộc chiến này quá phức tạp. Nó là cuộc chiến tranh lớn nhất và gây nhiều đổ vỡ nhất trong lịch sử nước ta. Người ta sẽ còn phải nói nhiều về nó. Bài này chỉ có tham vọng nói lên một vài điều mà theo nhận định chủ quan của tác giả đáng được lưu ý nhất vào thời điểm này.

1. Trước hết cần khẳng định rằng đây là một cuộc nội chiến.
Trong suốt cuộc chiến và sau đó Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn rêu rao rằng đây là cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, hay "chống Mỹ", và luận điệu này, do được lặp đi lặp lại quá nhiều lần, vẫn còn tiềm ẩn trong đầu óc nhiều người. Một thí dụ là người ta đôi khi vẫn còn nhắc lại câu nói được coi "ân tình" và "sáng suốt" của các cấp lãnh đạo cộng sản tiếp thu miền Nam năm 1975: "Không có người Việt Nam nào thua trận cả, mọi người Việt Nam đều thắng, chỉ có đế quốc Mỹ thua". Người ta nhắc lại để tôn vinh những con người như các ông Võ Văn Kiệt, Trần Văn Trà v.v… Thực ra đây là câu nói đã được học tập và được nói ra bởi mọi cán bộ cao cấp, đã được nghe nhiều lần từ nhiều người. Một câu nói sai và thóa mạ. Nó chỉ nhắc lại lập luận ngạo mạn của ĐCSVN rằng họ là toàn dân trong khi trước mặt họ chỉ có những tay sai của Mỹ. Cần dứt khoát: khi người trong một nước giết nhau trên một qui mô lớn và trong một thời gian dài thì đó là nội chiến, dù có hay không có sự can thiệp từ bên ngoài. Vả lại, không phải chỉ có miền Nam dựa vào Mỹ mà miền Bắc cũng đã nhận một khối lượng viện trợ khổng lồ từ các nước cộng sản anh em, nhất là Liên Xô và Trung Quốc; viện trợ này còn đều đặn và bền bỉ hơn hẳn viện trợ của Mỹ cho miền Nam và đó đã là lý do chính của chiến thắng cộng sản. Sau này người ta cũng được biết là cũng đã có hàng trăm ngàn quân Trung Quốc và cố vấn Liên Xô tại miền Bắc. Miền Bắc thực ra còn lệ thuộc nước ngoài hơn hẳn miền Nam;  họ phải ca tụng Liên Xô và Trung Quốc là anh cả, anh hai, là vĩ đại, phải khóc Stalin hơn cả khóc cha. Chính ông Hồ Chí Minh cũng không ngăn nổi vụ xử bắn bà Nguyễn Thị Năm - một người mẹ chiến sĩ rất có công - chỉ vì cố vấn Trung Quốc đã lỡ quyết định như thế, v.v… Và cũng không phải là toàn dân ủng hộ họ bởi vì những người bỏ trốn chế độ cộng sản bao giờ cũng đông đảo hơn hẳn những người tìm đến với nó. Câu nói: "Nếu bỏ đi được thì cái cột đèn cũng đi" không phải của các thế lực thù địch mà là của dân gian. Cần khẳng định mạnh mẽ và dứt khoát bản chất nội chiến của cuộc chiến này.

Trừ ra trong đầu óc của những người quá tăm tối không có cuộc nội chiến nào vinh quang cả. Tất cả mọi cuộc nội chiến đều ô nhục và độc hại. Chúng đều có thể tóm lược như nhau: một dân tộc không đồng ý với nhau và thay vì cố gắng thỏa hiệp thì đã giết nhau. Chọn nội chiến là thú nhận không thể thuyết phục, vì thiếu lý luận hoặc vì thiếu lý do chính đáng. Đó là chọn thái độ thù địch và xóa bỏ tình đồng bào. Trong một bài trước tôi đã trình bày sức tàn phá ghê gớm của các cuộc nội chiến, nhất là những cuộc nội chiến do các đảng cộng sản phát động (1). Ở đây chỉ xin nhắc lại rằng ít có quốc gia nào gượng dậy nổi sau một cuộc nội chiến. Những người chủ trương nội chiến có tội lớn và phải bị lên án.

2. Điểm thứ hai là sức mạnh của các đảng cộng sản, kể cả ĐCSVN, không phải là hậu thuẫn quần chúng mà là vì chúng có tổ chức chặt chẽ và hơn thế nữa chúng là những tổ chức khủng bố.
Không nên để cho những khẩu hiệu sống sượng kiểu "Đảng ta là người đại diện trung thành của nhân dân…" làm quên đi một sự kiện căn bản là trong lịch sử thế giới chưa hề có một đảng cộng sản nào giành được thắng lợi trong một cuộc bầu cử lương thiện nào. Tất cả mọi đảng cộng sản đều đã chỉ cướp và giữ chính quyền bằng bạo lực. Tất cả những ai đọc Lênin đều thấy rằng đối với ông ta bí quyết thành công để cướp chính quyền là một đội ngũ nhỏ nhưng có kỷ luật và quyết tâm. Phương châm của các đảng cộng sản là "cứu cánh biện minh cho mọi phương tiện", phương pháp của chúng là khủng bố. Khủng bố có hiệu lực ghê gớm là nó không từ một thủ đoạn hay một tội ác nào và vì thế cho phép một lực lượng nhỏ đánh bại hoặc cầm chân một lực lượng nhiều lần mạnh hơn. Nó cũng gây kinh hoàng tới độ biến mọi người trở thành những đồng lõa thụ động và sự im lặng này được bộ máy tuyên truyền tô vẽ như một sự đồng tình. Nhưng những đám đông của những cuộc hành quyết trong đợt Cải Cách Ruộng Đất 1955 đã đến vì sợ hãi và vì bị bắt buộc phải đến chứ không phải vì căm thù các nạn nhân. Sau năm 1975 tôi đã gặp nhiều trí thức miền Bắc trong đó có những người có tên tuổi. Trong câu chuyện riêng họ kể những chuyện khó tưởng tượng. Tại sao họ không phản đối? Câu trả lời luôn luôn ngắn gọn: "Phản đối là chết ngay, chỉ tỏ ra không tán thành cũng đủ mắc họa rồi". Thế nhưng sau đó Đảng cũng đã nhìn nhận sai lầm cơ mà? "Đó là cái bẫy, ngây thơ tưởng thực là chết, các ông bà Nhân Văn – Giai Phẩm đã là nạn nhân của cái bẫy này". Chỉ gần đây thôi thế giới mới nhận diện được và lên án bản chất tội ác của khủng bố; cho tới thập niên 1970 nó còn sức quyến rũ với rất nhiều trí thức và họ đã tiếp tay cổ võ cho nó. Khủng bố đã là lý do khiến ĐCSVN dù đã phạm nhiều tội ác và sai lầm vẫn trụ được và sau cùng chiến thắng khi đối thủ mệt mỏi và bỏ cuộc.

3. Điểm thứ ba, đặc biệt quan trọng, là đảng cộng sản đã thành công vì Việt Nam thiếu một lớp trí thức chính trị.
Một nghịch lý lớn vẫn còn cần được nhìn rõ là tại sao vào thời điểm 1945 và nhiều năm sau đó tổ chức được trí thức ủng hộ nhiều nhất -nhiều nhất so với các tổ chức khác chứ không phải là đa số trí thức- lại là đảng cộng sản, một đảng theo đuổi một chủ nghĩa mà mục tiêu sau cùng là xóa bỏ quốc gia? Giải thích chỉ có thể là vì ý thức quốc gia của chúng ta không mạnh, và ý thức quốc gia của chúng ta không mạnh vì chúng ta thiếu một lớp trí thức chính trị.

Một thắc mắc vẫn còn kéo dài cho đến nay là phe quốc gia -hiểu theo nghĩa rộng là tập thể những người không cộng sản- đáng lẽ không thể thua vì nhận sự có trình độ văn hóa cao hơn hẳn các cấp lãnh đạo cộng sản. Thắc mắc này chỉ là một ngộ nhận. Sự thực là các cấp lãnh đạo cộng sản hơn hẳn những người chống lại họ. Lý do là vì hơn hay kém trong một cuôc đấu tranh chính trị phải được xét trên khả năng chính trị mà trí thức Việt Nam không có. Các ông bộ trưởng, giám đốc của các chính quyền quốc gia và các trí thức bị ngược đãi tại miền Bắc có thể có nhiều bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ nhưng họ chỉ là những nhà khoa bảng chứ không phải là những trí thức chính trị, cùng lắm họ có những hiểu biết chuyên môn chứ không có kiến thức chính trị. Họ có thể biết một chế độ dân chủ phải có ba quyền phân lập, Washington là tổng thống đầu tiên của nước Mỹ, Galilée đã khám phá ra rằng trái đất xoay quanh mặt trời v.v. nhưng đó không phải là những kiến thức chính trị. Kiến thức chính trị là thành quả của một cố gắng nghiên cứu và suy nghĩ nghiêm túc để trả lời những câu hỏi như bộ máy chính quyền có mục đích gì, có thể và nên được tổ chức như thế nào, là sự hiểu biết sâu sắc về những giá trị nền tảng của xã hội, về những gì làm cho một quốc gia phát triển hoặc suy thoái, đoàn kết hay xung đột, về cách tổ chức các hoạt động quốc gia trong mọi ngành một cách hiệu quả và đồng bộ, về cách chia sẻ đúng đắn những hy sinh và những thành quả v.v.  Quan trọng hơn nữa, ở mỗi thời điểm nó đòi hỏi sự hiểu biết chính xác hiện tình đất nước và bối cảnh thế giới, những vấn đề đang hoặc sắp đặt ra và những giải pháp có thể có. Kiến thức chính trị bao gồm mọi loại kiến thức cộng với những kiến thức được coi là thuần túy chính trị, hơn nữa nó lại phải luôn luôn được kiểm chứng bởi thực tế vì thế một cá nhân dù trải qua bao nhiêu năm nghiên cứu, suy tư và hành động cũng không thể nào có đủ, nó luôn luôn phải là kiến thức của một khối người: những trí thức chính trị.

Chúng ta đang sống một thảm kịch lớn. Nước ta tut hậu một cách bi đát về mọi mặt so với thế giới. GDP (sản lượng nội địa) của chúng ta (1500 USD dù ước lượng rộng rãi) chỉ bằng 15% mức trung bình thế giới. Nếu giả thử chúng ta tăng trưởng nhanh hơn các nước đang trỗi dậy 2% mỗi năm -một điều không có gì bảo đảm vì thực tế là các nước này đang tiến lên và chúng ta đang đi vào khủng hoảng- thì cũng phải một trăm năm nữa chúng ta mới bắt kịp mức trung bình thế giới. Chúng ta là nước đông dân thứ 13 trên thế giới nhưng không có bất cứ một thành tích nào đáng kể trên bất cứ địa hạt nào dù là công nghiệp, khoa học, văn hóa, nghệ thuật hay thể thao. Chúng ta là một nước không đáng kể. Tủi nhục nhất là chúng ta vẫn chưa có dân chủ, nghĩa là vẫn chưa có đủ quyền con người. Thảm kịch đó có một tên gọi và một nguyên nhân. Tên gọi đó là chế độ cộng sản, nguyên nhân đó là vì Đảng Cộng sản Việt Nam đã thắng. Ngày nay không còn một người Việt Nam lương thiện nào có thể chối cãi rằng nếu không có ĐCSVN thì ngày nay đất nước đã khá hơn nhiều rồi, tệ lắm cũng phải bằng năm hay sáu lần hiện nay. Không mất Bản Giốc, Nam Quan, Trường Sa, Hoàng Sa và cũng không làm hơn năm triệu người thiệt mạng. Đảng cộng sản là một tai họa.

Nhưng tại sao nó đã thắng? Chiến thắng của đảng cộng sản rất không bình thường. Nó đã liên tục phạm những tội ác kinh khủng và sai lầm nghiêm trọng về mọi mặt mà vẫn trụ được và sau cùng toàn thắng. Trong bất cứ một quốc gia bình thường nào một lực lượng như vậy đã thất bại thê thảm rồi. Nhưng nó đã thắng chỉ vì trước mặt nó không có một tổ chức chính trị đúng nghĩa nào mà chỉ có một guồng máy chính quyền được điều khiển bởi những người vừa không có khả năng vừa không có đội ngũ kế tiếp nhau cầm quyền trong một thời gian. Đảng cộng sản đã thắng chỉ vì không có ai để đánh bại nó.

Thảm kịch của đất nước thường được giải thích là vì dân trí ta kém. Đó là một giải thích vừa sai vừa không luơng thiện. Đó là đổ cho quần chúng một tội lớn của trí thức. Dân tộc nào nói chung cũng vậy thôi, họ chủ yếu quan tâm tới bản thân, gia đình và cuộc sống hàng ngày. Nghĩ về đất nước, lo lắng cho đất nước, hiểu và giải quyết những vấn đề của đất nước là công việc của tầng lớp trí thức chính trị. Người dân Việt Nam cũng thế và trình độ hiểu biết của dân ta còn hơn hẳn nhiều dân tộc khác vào lúc mà họ xây dựng thành công dân chủ. Thảm kịch của chúng ta là chúng ta đã thiếu những trí thức chính trị, những người có kiến thức chính trị, dám suy nghĩ và quyết định, có quyết tâm và sẵn sàng phấn đấu để đất nước được quản trị một cách hợp lý. Chúng ta đã không có những trí thức chính trị, những người mà vai trò và trách nhiệm là hướng dẫn quần chúng và lãnh đạo xã hội.

Trí thức của ta là hậu duệ của giai cấp sĩ, những người mà mộng đời chỉ là được làm quan, nghĩa là làm công cụ cho các vua chúa để thống trị dân chúng. Và tâm lý kẻ sĩ vẫn còn rất mạnh, với đa số trí thức ngày nay làm chính trị vẫn còn đồng nghĩa với cố gắng để được làm quan. Cũng cần lưu ý rằng ý thức chính trị của kẻ sĩ ngày xưa không cao hơn mà còn thấp hơn ý thức chính trị của quần chúng. Trong xã hội ta trước đây có hai loại người có ý thức chính trị, những người lấy những quyết định chính trị –các vua chúa - và những người chịu đựng những quyết định đó, nghĩa là quần chúng. Kẻ sĩ chỉ là công cụ, và những công cụ không có ý thức. Giữa Lê Lợi và Nguyễn Trãi có một khoảng cách lớn. Lê Lợi là một con người tự do và lấy quyết định, Nguyễn Trãi chỉ là một bầy tôi và một dụng cụ. Di sản kẻ sĩ đã khiến trí thức Việt Nam cho đến nay dù đã học được nhiều kiến thức mới vẫn chỉ có khả năng làm những công cụ. Họ cần một minh chủ, nhưng thời đại của các minh chủ đã qua rồi, vì thế họ bơ vơ và lạc lõng.

Chính sự thiếu vắng một lớp trí thực chính trị đã cho phép đảng cộng sản thắng và đưa đất nước vào tai họa. Cũng chính sự thiếu vắng một lớp trí thức chính trị đã khiến chế độ này sau đó vẫn còn tồn tại được trong 39 năm qua.

4. Điểm thứ tư là đừng nên tiếc rằng ngày 30/4/1975 đã là một cơ hội lớn bị bỏ lỡ.
Đúng là trong bối cảnh tồi tệ của một cuộc nội chiến dài và đẫm máu, ngày 30/4/1975 đã là một cơ hội. Nội chiến đã không chấm dứt trong biển máu. Hai đạo quân trên một triệu người đã không tàn sát nhau lần cuối, một bên đã buông súng. Đó đã là cơ hội lý tưởng để thực hiện hòa giải dân tộc để đất nước gượng dậy và vươn tới. Cơ hội này đã lỡ uổng vì những người cầm đầu phe chiến thắng –cũng là những người chủ trương nội chiến đến cùng- đã coi nội chiến là vinh quang và thần thánh thay vì ô nhục và độc hại. Họ đã đặt chủ nghĩa lên trên đất nước và đã đối xử với miền Nam như một lực lượng chiếm đóng.

Đúng, nhưng không thể khác. Đảng cộng sản là một tổ chức khủng bố và chỉ có thể hành động theo logic của một tổ chức khủng bố, nghĩa là làm những gì họ đã làm. Thực hiện hòa giải dân tộc và xây dựng dân chủ không nằm trong tâm lý của họ. Dĩ nhiên cũng có những người có thiện chí nhưng họ chỉ là những cấp lãnh đạo cỡ trung bình không có vai trò quyết định. Các cấp lãnh đạo cộng sản cao nhất đều là những lãnh tụ khủng bố. Một thí dụ là ông Võ Văn Kiệt mà nhiều người thường nhắc đến như một con người cởi mở và bao dung. Đừng quên rằng chính ông Kiệt trong thời gian cầm đầu công an miền Nam –trong chức vụ chính thức là giám đốc sở công an Thành Phố Hồ Chí Minh- đã lập ra Đảng Việt Nam Phục Quốc để làm bẫy bắt và tiêu diệt những thành phần, đa số là thanh niên, có ý đồ chống đối. Nhiều người đã bị xử bắn. Cũng chính ông Kiệt trong thời gian làm bí thư thành ủy đã cho đập phá nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, nghĩa trang của gia đình nhiều chức sắc Việt Nam Cộng Hòa.
Những sự kiện sau ngày 30/4/1975 đã xảy ra như chúng phải xảy ra.

5. Điểm thứ năm là chiến thắng cộng sản, và ngày 30/4/1975, đã hoàn toàn thuộc vào lịch sử. Thuộc vào lịch sử không có nghĩa là không còn ảnh hưởng tới thực tại và không còn đáng quan tâm. Các biến cố lịch sử có ảnh hưởng lâu dài trên một dân tộc và cần được liên tục nhìn lại và xét lại. Khi tôi còn là sinh viên trong thập niên 1960 đa số người Pháp còn ngưỡng mộ Napoléon như một anh hùng làm vẻ vang cho nước Pháp, ngày nay mọi trí thức Pháp đều đồng ý rằng ông đã là một tai họa. Chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng của giai đoạn Trịnh - Nguyễn, Tây Sơn và chính sách của triều Nguyễn. Chúng ta cũng như mọi dân tộc đều là sản phẩm của lịch sử. Thuộc vào lịch sử chỉ có nghĩa là những tác nhân của biến cố không còn tác động lên thực tại nữa. Ngày 30-4-1975 đã thuộc hẳn vào lịch sử vì những người đã tạo ra nó, những người đã đóng góp cho đảng cộng sản và những người đã không ngăn chặn được nó, đã ra đi. Chỉ còn lại những con người thừa hưởng di sản bi đát của đảng cộng sản. Quá khứ có thể khác nhau, cương vị có thể khác nhau nhưng tất cả đều phải đối mặt với cùng một thử thách: làm thế nào để đưa đất nước và dân tộc ra khỏi bế tắc.

6. Điểm thứ sáu là đã đến lúc phải thành thực và sòng phẳng với quá khứ. Điều này có vẻ hiển nhiên, có nhìn lịch sử một cách công bình và chính xác chúng ta chúng ta mới rút ra được những quyết định đúng cho tương lai. Tuy vậy vẫn còn vài lấn cấn. Một người bạn nói với tôi rằng đừng nên đả kích ông Hồ Chí Minh và giai đoạn Cách Mạng Tháng 8 để đừng đụng chạm đến những vị lão thành cách mạng. Anh nói thêm: "Tôi biết là có nhiều phê phán rất đúng, nhưng các vị lão thành đều rất nhạy cảm với những đề tài này. Họ cũng rất bất mãn và có thể tiếp tay cho cuộc vận động dân chủ nhưng nếu muốn tranh thủ họ thì đừng đụng đến những điều mà họ tôn sùng". Bạn tôi không phải là người duy nhất đưa ra quan điểm này, nhiều người đã nói như thế, nhất là các trí thức trong nước.

Tôi chưa bao giờ tán thành quan điểm này dù nhìn nhận nó xuất phát từ thiện chí. Đối với tôi sự kính trọng trước hết đòi hỏi sự thành thực. Nói dối, hay không dám nói sự thực, để tranh thủ một người là đánh giá thấp và đánh lừa người đó. Tôi quí trọng các vị lão thành cách mạng dù họ đã tiếp tay cho những người lãnh đạo cộng sản đưa đất nước vào thảm kịch. Tôi không trách họ vì những người khác cũng không hơn gì họ. Khi một đất nước không có một giai cấp trí thức chính trị để hướng dẫn thì mỗi người lầm lẫn một cách và họ đã lầm theo cách của họ. Tôi kính trọng họ nhưng bổn phận trước hết của chúng ta là bổn phận đối với sự thực và những nạn nhân của cuộc chiến này và chế độ mà nó đã để lại.

Đàng nào thì vấn đề cũng không đặt ra nữa. Những vị lão thành cách mạng phần lớn đã ra đi, phần còn lại sắp ra đi và khả năng đóng góp đang suy giảm nhanh chóng. Chúng ta vẫn trân trọng những đóng góp sắp tới của họ nhưng không nên chờ đợi nhiều nữa. Chúng ta cần bộc trực nhận diện mọi sự kiện để rút ra những bài học đúng.

7. Điều quan trọng nhất trong lúc này là ý thức rằng chúng ta đang sống một khúc quanh lịch sử lớn. Đất nước đã thay đổi nhiều, chủ yếu do được lôi kéo bởi một thế giới thay đổi dồn dập hàng ngày, và đã chín muồi cho một thay đổi chế độ. Nhân sự chính trị của đất nước đang đổi mới. Một thế hệ mới đang nhập cuộc. Một lớp trí thức chính trị, mà chúng ta chưa hề có trong suốt dòng lịch sử, đang hình thành. Các tiến bộ về truyền thông đã mở ra cả một không gian tự do cho thông tin, ý kiến và thảo luận trên mạng toàn cầu Internet. Không gian tự do này ngày càng bao trùm và đang tiêu hóa nhanh chóng không gian vật chất mà những người cầm quyền -vì tăm tối- vẫn còn cố gắng duy trì.

Cố gắng tuyệt vọng vì lầm thời đại. Hơn nữa chế độ đang trả giá cho sự bất tài và tham những của nó. Bối cảnh kinh tế xã hội đang rất khó khăn và sẽ còn khó khăn hơn trong những ngày sắp tới, phẫn nộ xã hội sẽ lên cao nhanh chóng. Nội bộ đảng cộng sản cũng đã tích lũy quá nhiều mâu thuẫn. Chỗ dựa Trung Quốc của họ đang lung lay. Bối rối đã thấy rõ. Chế độ đã phải chấp nhận những nhượng bộ chưa từng thấy. Họ đã phải trả tự do cho những người dân chủ, như Vi Đức Hồi, không những không nhận tội và xin khoan hồng mà còn dõng dạc tuyên bố tiếp tục đấu tranh. Họ đã phải chấp nhận sự hiện diện ngày càng đông đảo và sắp thành áp đảo của những người -chủ yếu là những thanh niên nghĩa là tương lai tức khắc của đất nước- công khai phản bác chế độ và khẳng định lập trường dân chủ. Dân chủ không chỉ tất yếu mà còn đang đến. Chế độ độc tài toàn trị đang sống những ngày lúng túng cuối cùng. Tất cả vấn đề chỉ là dân chủ sẽ đến như thế nào, đến nhanh hay chậm, đến trong sự hỗn loạn của căm thù bùng nổ hay trong hòa bình và trật tự của tình anh em tìm lại.

Vận hội lịch sử này đòi hỏi quyết tâm, sáng suốt và trách nhiệm. Để hiểu rằng đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu tranh cá nhân cả mà luôn luôn là đấu tranh có tổ chức.  Điều mà chúng ta cũng cần hiểu rất rõ là xây dựng một tổ chức chính trị đòi hỏi, ngoài một tư tưởng chính trị và một dự án chính trị đúng đắn, những  cố gắng kiên trì trong nhiều năm trong đó mỗi người phải vừa có quyết tâm và sự khiêm tốn cần thiết để hy sinh cái riêng cho cái chung. Một tổ chức chính trị không thể thành lập một sớm một chiều và không phải ai cũng có thể thành lập một tổ chức chính trị. Những manh động chỉ có tác dụng đánh lạc hướng sự chú ý khỏi những cố gắng nghiêm túc và gây hỗn loạn thay vì đóng góp cho cuộc vận động dân chủ, chúng không nên được khuyến khích.

Lời cuối: Từ trước đến nay trong lịch sử nước ta đã chỉ có những chế độ nô lệ. Những cuộc chiến tranh chống xâm lăng mà chúng ta tự hào trong chiểu sâu cũng chỉ có mục đích thay thế một chế độ nô lệ ngoại bang bằng một chế độ nô lệ bản xứ. Chúng ta chưa bao giờ là một dân tộc tự do. Ngày nay chúng ta đang đứng trước hy vọng bước vào giai đoạn thứ hai của lịch sử, giai đoạn của một nước Việt Nam dân chủ và của những con người Việt Nam tự do. Chúng ta vẫn có quyền lạc quan. Đất nước dù rất thua kém nhưng không tuyệt vọng. Tiềm năng dân tộc, con người cũng như tài nguyên thiên nhiên, còn rất lớn và chỉ chờ đợi để được vận dụng một cách hợp lý. Chúng ta sẽ vươn lên mạnh mẽ một khi rũ bỏ được ách độc tài này.

Kỷ niệm ngày 30/4/1975 là dịp để chúng ta nhân diện cơ hội đang đến và quyết tâm đúng hẹn với lịch sử.

Nguyễn Gia Kiểng
(30/4/2014)





BẤT HẠNH VIỆT NAM (Huỳnh Ngọc Chênh)




Thứ Năm, ngày 01 tháng 5 năm 2014

Đọc Chiến Quốc của Trung Hoa cổ đại ta thấy các nước lớn như Tề, Tấn, Sở, Tần có thể đứng ra xưng bá, lập trật tự theo ý của mình. Các nước nhỏ còn lại như Lỗ, Trần, Tống, Uyển, Sái, Tào, Yên, Hàn, Vệ ... không đủ sức đứng riêng ra một chiếu, phải lệ thuộc vào các nước lớn. Họ, hôm nay đầu Tề, mai về đầu Sở...tùy theo cục diện để mang lợi ích tốt nhất cho nước mình.

Cục diện thế giới hiện nay là sự mở rộng ra quy mô toàn cầu của cục diện Chiến Quốc cách đây mấy ngàn năm. Sau đệ nhị thế chiến, thế giới được sắp xếp lại, các nước nhỏ trước kia là thuộc địa của châu Âu dần dần được độc lập và xoay quanh hai cực vừa nhô lên, Mỹ và Liên xô. Trật tự thế giới được dàn xếp và giằng kéo giữa hai cực hùng mạnh đó. Một số quốc gia đi theo trật tự do LX sắp xếp, một số quốc gia đi theo trật tự của Mỹ, một số lừng chừng chưa ngã theo ai gọi là các nước trung lập, và rất bất hạnh lại có một số quốc gia nửa theo phe nầy, nửa theo phe kia nên phải chia đôi đất nước.
Việt Nam là một trong số 4 nước trên thế giới phải chịu sự bất hạnh đó. Và càng bất hạnh hơn, Việt Nam là nước bất hạnh nhất trong số 4 nước bất hạnh, vì tự nguyện trở thành chiến trường của sự tranh chấp khốc liệt giữa hai cực của thế giới. Hai phe của VN sau khi được chia cắt đã không chịu cho nhau sự yên ổn để cùng phát triển trong hòa bình, cả hai quyết tâm loại trừ nhau và vì thế đã bị cả hai thế lực đối đầu lợi dụng. Cuộc chiến tranh 20 năm vừa qua là cuộc chiến khốc liệt nhất mà nhân dân VN phải bất hạnh gánh chịu.

Phe nào quyết định khởi động binh đao tấn công trước tiêu diệt phe kia trong bối cảnh thế giới chia làm hai cực vừa qua đều là hành động mà lịch sử rồi sẽ đánh giá là sáng suốt anh hùng hay điên cuồng mù quáng.

Trước chiến tranh VN, phe Bắc Triều Tiên đã điên cuồng xua quân xuống đánh chiếm miền Nam và họ đã phải đụng đầu trực tiếp với thế lực lớn mạnh nhất thế giới bấy giờ mà nếu không có sự can thiệp của Tàu và sau lưng là cộng sản LX thì họ đã mất trắng. Sau đó thì họ khôn ra, bằng lòng với phần đất nước bên kia vĩ tuyến 38 mà ngay từ đầu họ được phân. Từ đó, hơn 60 năm trôi qua, lúc nào Bắc Triều Tiên cũng hung hăng la to đòi giải phóng miền Nam, nhưng trong bụng họ hiểu rằng chỉ có ngu dốt điên cuồng mới đem quân tràn xuống phía Nam lần nữa. Họ biết họ không thể nào chạm vào trật tự của Mỹ. Nhờ vậy Nam Hàn yên thân phát triển đất nước trong vòng trật tự của Mỹ, và nhanh chóng trở thành cường quốc kinh tế của thế giới.

Đông Đức và Tây Đức thì hoàn toàn yên phận ở mỗi bên. Họ là nước thua trận bị 2 thế lực thắng trận cưỡng bức chia cắt và vừa thoát ra khỏi cuộc chiến một cách khốc liệt và tang thương, họ không muốn đất nước của họ thành bãi chiến trường mới của hai lực lượng đối nghịch mạnh nhất thế giới. Nhờ vậy mỗi bên đều yên tâm lo xây dựng và phát triển kinh tế. Và sau nầy họ thống nhất một cách êm thấm trong cục diện trật tự mới của thế giới, không tổn hao một giọt máu nào.

Nước bị chia cắt thứ tư từ sau đệ nhị thế chiến là Trung Hoa. Phần theo trật tự của LX chiếm hết cả lục địa rộng lớn. Phần theo trật tự Mỹ chỉ còn là một hòn đảo tí teo. Trong 4 nước bị chia cắt, thì Tàu cộng có khả năng áp đảo để có thể tiêu diệt phe kia là Đài Loan Tàu Tưởng. Thế nhưng những người cộng sản Tàu quá sức khôn ngoan. Họ dư sức "xẻ dọc biển Hoa Đông" hoặc họ cũng dư sức và dư sự ác độc để lấy xác hằng hà người Hoa Lục làm cầu bắt qua biển để xua quân giải phóng Đài Loan. Nhưng họ khôn ngoan thấy rằng đụng vào Đài Loan là đụng vào trật tự của Mỹ nên họ nhịn. Họ tạm "bảo lưu" Đài Loan, để tập trung xây dựng đất nước. Nhờ vậy Đài Loan được yên thân phát triển kinh tế trong trật tự của Mỹ và nhanh chóng trở nên giàu mạnh giống như Nam Hàn.

Như vậy duy nhất chỉ có miền Bắc VN quyết tâm xẻ dọc Trường Sơn, hy sinh tất cả với mọi giá, tiêu diệt cho được phe miền Nam, dù họ vẫn biết rằng đụng vào miền Nam là đụng vào trật tự của Mỹ nghĩa là họ phải trực tiếp đối đầu với thế lực hùng mạnh nhất thế giới. Vì nghỉ có LX và Tàu bảo kê nên họ chấp nhận đụng đầu với Mỹ, tuy vậy họ lại thành công, nhưng cái giá phải trả quá đắt, đắt đến mức mà sau gần 40 năm vẫn chưa trả hết, và cũng chưa biết bao giờ trả mới xong.

Sau nầy khi nghe Taliban, Sadam Husein rồi Kadafi muốn làm anh hùng như VN, đòi đối đầu với Mỹ, thế giới không khỏi phì cười và chê bai đó là hành động ngu dốt và điên rồ, tự dưng đẩy đất nước đang an lành của mình vào tình thế chiến tranh với một siêu cường thiết lập ra được trật tự của thế giới. Dĩ nhiên lần lượt những kẻ đó đều chuốc lấy thảm bại như chúng ta đã thấy.

Từ cổ chí kim, những quốc gia nhỏ khôn ngoan là những quốc gia biết chọn ai lớn mạnh nhất để theo chứ không phải để chống lại. Một nhà nước khôn ngoan không bao giờ bắt buộc toàn dân đi theo và trung thành với bất kỳ một chủ thuyết duy nhất nào cả. Một nhà nước khôn ngoan của quốc gia nhỏ bé phải biết chọn nước lớn nào theo và không nhất thiết vĩnh viễn trung thành với nước lớn nào cả.
Thái Lan là ví dụ điển hình cho sự khôn ngoan của một nước nhỏ. Họ như cây sậy ngã theo chiều gió mạnh để tồn tại và phát triển. Khi phong trào thực dân từ Châu Âu tràn tới, họ bị kẹp giữa hai thế lực hùng mạnh là Pháp ở phía đông và Anh ở phía tây. May mắn cho họ, chính hai thế lực nầy không muốn đụng chạm nhau nên cho họ trung lập và độc lập. Thái Lan lắc lư giữa hai thế lực nầy để tồn tại. Nhưng khi đệ nhị thế chiến nổ ra, Nhật hùng mạnh tràn vào Đông Nam Á, Thái Lan ngay lập tức bỏ rơi Anh- Pháp, tình nguyện đi theo Nhật để làm đồng minh. Đến khi Nhật bị Mỹ đánh cho xiển liển trên Thái Bình Dương, sắp thua đến nơi,  một bộ phận chính quyền của Thái Lan nhảy ra làm đảo chính và tuyên bố kháng chiến chống Nhật và theo đồng minh. Nhờ động thái khôn ngoan kịp thời nầy mà khi Nhật đầu hàng, Mỹ đã ưu ái không cho đồng minh vào chiếm đóng Thái Lan. Tuy vậy, kể từ đó cả Anh lẫn Pháp đều căm ghét Thái Lan. Nhưng Thái Lan không hề lo, họ biết có một thế lực hùng mạnh đang nổi lên là Mỹ và họ bám ngay vào. Khi nổ ra chiến tranh VN, họ càng bám sát vào Mỹ hơn để trở thành đồng minh tín cẩn của siêu cường hùng mạnh nhất thế giới nầy. Nhờ vậy họ hưởng không biết bao nhiêu lợi lộc từ chiến tranh VN và qua đó phát triển đất nước giàu mạnh lên như hiện nay.

                                                                  *       *
                                                                       *

Sau khi Liên Xô và hệ thống cộng sản sụp đổ, Mỹ trở thành siêu cường số một, không còn ai cạnh tranh ngang bằng. Họ tiếp tục phát triển cái trật tự đã có theo ý của họ. Lực lượng văn minh và giàu mạnh thứ hai của thế giới là Châu Âu cũng đồng tình nằm trong trật tự nầy. Trừ một số rất ít các nước theo cộng sản còn sót lại và một số nước Hồi Giáo cực đoan, hầu hết các nước trên toàn thế giới từ Châu Mỹ, qua Châu Á, qua Châu Phi đều đồng ý đi theo trật tự nầy. Một nước lớn như Ấn Độ, trước đây vẫn thường xuyên chống lại trật tự kiểu Mỹ, nay cũng thấy rằng đó là nền trật tự tốt nhất cần phải đi theo.

Thế giới hiện nay chỉ có hai quốc gia đủ sức để đứng ra ngoài trật tự của Mỹ là Nga và Tàu. Hai quốc gia nầy cũng muốn lập ra trật tự theo ý của riêng mình. Một vài nước từ Liên Xô cũ và một vài nước nằm trong hệ thống văn hóa Slave vì sự tồn tại của lịch sử nên buộc lòng đứng trong khuôn khổ trật tự của Nga. Tàu cũng muốn vươn lên để lập ra một trật tự mới theo ý mình, nhưng số nước đi theo họ quá khiêm tốn, chỉ có Việt Nam và Bắc Hàn.

Tại sao gần hết cả thế giới đi theo Mỹ và đồng tình với trật tự của Mỹ? Do lực lượng quân sự hùng mạnh của Mỹ chăng? Nếu nói về quân sự thì Nga cũng không thua kém Mỹ bao nhiêu. Thế nhưng bạn bè cũ của Nga lần lượt bỏ Nga để đi theo Mỹ. Ban đầu là hàng loạt nước Đông Âu, tiếp theo là các nước tách ra từ Liên Xô cũ. Đòn đau nhất là mới đây, Ucraina, quốc gia ruột thịt, cùng nguồn gốc, cùng ngôn ngữ, cùng nền văn hóa với Nga cũng muốn rứt ra khỏi trật tự Nga để hội nhập vào trật tự Mỹ.

Bên cạnh sự giàu có hùng cường, Mỹ còn có cái hơn để thu hút cả thế giới tự nguyện nếp mình vào trật tự của họ. Đó là chính nghĩa. Chính nghĩa tự do và bình đẳng. Cái trật tự mà Mỹ lập ra là cái trật tự tôn trọng các quốc gia nhỏ, tôn trọng tất cả sự khác biệt, tôn trọng từng cá nhân con người... sự tôn trọng hơn hẳn các trật tự có được từ trước đến nay. Dù cái trật tự nầy chưa chắc đã hoàn hảo, nhưng chắc chắn rằng nó tốt nhất so với các trật tư trước đây và so với các trật tự mà Nga hay Tàu đang cố gắng lập ra.

Trật tự của Phát xít Đức chắc chắn không ai đi theo, trừ khi bị cưỡng bức. Tương tự như vậy với trật tự do Liên Xô Cộng sản lập ra và đã sụp đổ tan tành. Sau LX, Nga đang muốn lập ra một trật tự theo kiểu Nga để cạnh tranh với Mỹ và Châu Âu, và Tàu cũng rất thèm khát lập ra một trật tự theo kiểu Tàu. Nhưng nhìn vào cách hành xử lúng túng vì thiếu chính nghĩa của Putin, nhìn vào thể chế độc tài của Tàu cộng, thế giới không kỳ vọng điều gì tốt đẹp sẽ đến từ hai nền trật tự nầy. Rất bất hạnh cho những quốc gia nào phải bị nằm trong cái trật tự đó.

Ấy vậy mà Việt Nam lại phải nằm trong vòng trật tự còn đang manh nha của Tàu. Thật quá sức bất hạnh.

Bất hạnh cứ nếu tiếp bất hạnh cho dân tộc nầy.

HNC
Được đăng bởi Chênh Huỳnh Ngọc vào lúc 09:54


THEO WORLD BANK, VIỆT NAM MẤT 51 NĂM MỚI THEO KỊP INDONESIA (VnExpress)








Thứ ba, 16/12/2008 | 01:02 GMT+7

Tính toán mới đây của Ngân hàng Thế giới cho thấy Việt Nam sẽ phải mất hàng chục năm, thậm chí là cả trăm năm mới có thể đuổi kịp các nước láng giềng.

Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố đầu tháng này đưa ra những thống kê gây sốc cho những ai đang kỳ vọng lớn vào “con hổ Việt Nam”. Theo đó, Việt Nam có thể mất tới 51 năm mới đuổi kịp Indonesia và thậm chí 158 năm nữa mới bằng được Singapore về thu nhập trên đầu người.
Mặc dù đã mào đầu rằng công việc dự báo xu hướng tăng trưởng lâu dài là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn ngay cả với các nhà kinh tế giỏi, nhưng WB cũng đưa ra những căn cứ rõ ràng để chứng minh cho phán đoán của mình.  

Theo số liệu của WB, năm 2007, thu nhập trên đầu người của Việt Nam là 836 đôla, Indonesia là 1.918, Thái Lan là 3.850 và Singapore là 35.163. Trong giai đoạn 2001-2007, tốc độ tăng trưởng thu nhập trên đầu người (tính theo giá cố định, tức là sau khi đã trừ đi yếu tố lạm phát) tuơng ứng là 6,5%, 4,8%, 4,8% và 4,0% một năm. Với tốc độ này, Việt Nam sẽ cần 51 năm để thu nhập bình quân của người dân theo kịp Indonesia, 95 năm để theo kịp Thái Lan, 158 năm đối với Singapore.  

WB còn đưa ra một cách tính toán nữa là tính bằng đồng đôla. Theo đó, tốc độ tăng trưởng thu nhập trên đầu người tính bằng đôla của các nước Việt Nam, Indonesia, Thái Lan và Singapore tương ứng là 12,5%, 6,4%, 4,9% và 6,0%. Nếu sử dụng các con số này thì thời gian để Việt Nam theo kịp các nước trên sẽ là 15 năm với Indonesia, 22 năm bằng Thái Lan và 63 năm thì ngang với Singapore. Tuy nhiên, những con số tính bằng đồng đôla dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động ngắn hạn của tỷ giá hối đoái.  

Nếu tính bằng đồng đôla, GDP trên đầu người của Việt Nam hầu như chắc chắn sẽ vượt qua mốc 1.000 đôla trong năm 2008, về đích sớm hơn 2 năm so với mục tiêu đề ra trong Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội 2006-2010. Tuy nhiên, GDP đầu người đáng mừng như trên không có gì ngạc nhiên trong thời điểm đồng đôla bị mất giá. 

Trong thập niên vừa qua, đặc biệt là sau khi đẩy nhanh cải cách kinh tế sau Đại hội Đảng IX năm 2001, Việt Nam đã đạt tỷ lệ tăng trưởng kinh tế rất cao. GDP trên đầu người của Việt Nam tính theo giá cố định đã tăng trung bình 6,5% một năm. Việt Nam xếp thứ 24 trên 139 quốc gia về tăng trưởng GDP trên đầu người tính theo giá cố định (xếp hạng này không tính đến các quốc gia và vùng lãnh thổ có GDP dưới 2 tỷ đôla trong năm 2007). 

Dù tính theo cách nào thì thực tế vẫn cho thấy rằng Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh. Sự tăng trưởng nhanh chóng này là một trong những động lực chính dẫn đến giảm nghèo, một lĩnh vực mà Việt Nam đat được nhiều thành tựu có ý nghĩa. 

Tăng trưởng kinh tế nhanh một phần được duy trì nhờ vào tích lũy vốn lớn. Tính đến năm 2007, mỗi năm Việt Nam đã đầu tư đến 521,7 nghìn tỷ đồng, gần gấp ba lần so với năm 2001, khi các cải cách kinh tế bắt đầu tăng tốc. Chỉ một phẩn con số gia tăng này do giá cả tư liệu sản xuất cao hơn. Việt Nam đang là một trong những nước có tỷ lệ đầu tư cao nhất trên thế giới. Tính theo tích lũy vốn gộp thì trong năm 2007 chỉ có trên 12 trên 139 quốc gia là có tỷ suất cao hơn so với Việt Nam. 

Với những yếu tố đáng lạc quan như vậy, WB không quên cảnh báo vấn đề hiệu quả đầu tư của khối lượng nguồn lực này: Số vốn tăng thêm có được phân bổ cho đúng ngành, đúng hoạt động và đúng dự án hay không.  

Thanh Bình



View My Stats