Suốt
năm, ngày nào mà không là ngày kỷ niệm Ba Mươi Tháng Tư? Câu nói có vẻ mang
chút kịch tính nhưng chỉ là sự thật.
Ba
Mươi Tháng Tư luôn luôn hiện diện là lẽ tự nhiên, vì cả con người và cuộc sống
của một người đã từng quyết định bỏ quê mẹ để ra đi về một phương trời vô định
với hai bàn tay trắng, ngày hôm nay cũng chỉ như con Phượng hoàng đã nảy sinh
từ nắm tro tàn của con Phượng hoàng tiền sinh, sau khi nó cuộn mình trong cái
tổ bằng củi quế rồi bốc cháy. Từ đó mới có cơ hội để bến bờ tự do mang dần lại
những chất liệu cần thiết nuôi dưỡng thể xác cũng như tinh thần cho cuộc sống
"tái sinh" ngày hôm nay.
Một
chín bảy lăm, không thể phủ nhận tâm trạng não nề tuyệt vọng khi tôi bước chân
rời quê mẹ. Mang trong lòng nỗi uất ức bị đồng minh phản bội, nỗi tiếc thương
hai người anh chưa đầy ba mươi tuổi đã gục ngã nơi chiến trường mà không ngăn
được sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, nổi giận trời giận đất tại sao kẻ ngay
lại phải ngã ngựa. Trong những rối loạn tâm tư, tôi chỉ còn một điểm tựa duy
nhất là lòng tin ở lý tưởng của mình là đúng và mình phải thoát khỏi sự kềm kẹp
thể xác cũng như tinh thần của Cộng sản VN mới còn cơ hội tranh đấu cho một dân
tộc Việt Nam có tự do và chủ quyền. Điều này là kinh nghiệm xương máu của
gia đình tôi, một gia đình người Bắc di cư năm 54 vào Nam, với người bác ruột
bị Việt Minh tối đập cửa trùm chăn đem đi biệt tích, với người chú họ phải nghe
lời cha, trước khi trốn vào Nam đã dấu mang thuốc độc vào nhà tù cho cha mình
tự tử để tránh cảnh hôm sau ông cụ bị đấu tố, và một người cha vào tù ra khám
thực dân Pháp nhưng luôn sáng suốt không rơi vào bẫy của Hồ Chí Minh và đảng
Cộng Sản, nên đã cắn răng gởi người vợ tay bế đứa con vừa tròn tháng tay dẫn
đàn con nhỏ lếch thếch theo họ hàng xuống Hải Phòng xuôi vào Nam. May mắn là
một trong những chuyến tàu thủy cuối cùng mấy tháng sau đã giúp ông đoàn tụ gia
đình.
Hai
không mười bốn. 39 năm hải ngoại, hơn một nửa đời người.
Thấy
rõ trong mình lúc nào cũng là hai mảnh và phải cần một thời gian dài, rất dài,
để có thể tìm được phần nào sự hài hòa giữa hai mảnh đời, để không luôn luôn có
sự xâu xé giữa những ước muốn hạnh phúc tầm thường của một con người bình
thường là có gia đình yên ấm và một cuộc sống vật chất đầy đủ, với những thao
thức của một người Việt Nam muốn tìm cách đóng góp để chấm dứt sự lầm than,
kiệt quệ, mà vẫn xuất huyết không ngưng nghỉ của dân tộc mình.
Kết
tội và thù hận kẻ gây tội là điều dĩ nhiên, nhưng với thời gian cũng không đủ
để giải quyết vấn đề. Nghĩ cho cùng thật là cả một sỉ nhục cho một dân tộc nếu
lý do của tình trạng kiệt quệ ngày hôm nay chỉ do sự lường gạt của một người là
Hồ Chí Minh hay một nhóm người là đảng Cộng Sản gây ra. Nếu chỉ vì những thủ
phạm này thì dân tộc Việt là ai mà bị lừa bịp, tiếp tục bị lừa bịp, bị thua sự
lừa bịp, suốt từ năm 1945, mà không tỉnh giấc để tự giải thoát?
Thật
ra hiện tượng tỉnh giấc vài năm sau này đã xảy ra từ Bắc chí Nam, tiếc thay
thật muộn màng và đau đớn thay không do sự thông minh học hỏi từ những kinh
nghiệm của người đi trước, mà chỉ xảy ra sau những kinh nghiệm xương máu chính
bản thân của hơn hai thế hệ. Phải mất 69 năm toàn dân Việt Nam mới đồng nhất
trong nhận định chủ thuyết cộng sản ngoại lai không hề đem lại tự do độc lập
cho dân tộc, mà đã và đang cản trở sự phát triển của đất nước cũng như đẩy dân
tộc vào mối hiểm nguy trước sự bành trướng của Trung Cộng.
Súng
đạn của những người Việt yêu tự do và chống Cộng sản đã thua tháng tư, một chín
bảy lăm. Điều này là một sự thật tuy chua chát nhưng tôi không bao giờ thấy hổ
thẹn hay có nhu cầu phải bào chữa.
Vì
lý tưởng về Nhân quyền, Tự do, Hòa bình, đã thắng.
Đảng
Cộng sản Việt Nam dù còn đang cầm quyền nhưng những luận điệu dối trá, sự thối
nát của họ đã không còn lường gạt được ai. Trong nước, mỗi ngày người dân mọi
nơi đã thôi sợ sệt và lên tiếng vạch mặt chỉ tên, thẳng thắn kết án. Tại hải
ngoại những kẻ ngã ngựa khi xưa đã tìm được những nhân tố quật khởi trong những
nhân tố thất bại: lấy sự có mặt bất đắc dĩ của mình ở xa quê hương làm phương
tiện để học hỏi, trau giồi và chứng minh với thế giới khả năng tự chủ tự cường
của dân tộc Việt. Họ bủa vây, lật mặt nạ những tham nhũng, vi phạm nhân quyền,
không được dân ủng hộ của nhà cầm quyền cộng sản VN trước thế giới và đang đẩy
dần Cộng Sản VN vào thế kẹt.
39
năm nhìn lại. Súng đạn chúng ta đã thua, lý tưởng chúng ta đã thắng. Nhưng sự
ngậm ngùi vẫn tiếp tục vì dân tộc chúng ta vẫn lầm than và đất nước chúng ta
sắp rơi hẳn vào tay Trung Cộng.
Dân
tộc Việt Nam cần một nhân tố cuối cùng để đạt tới mục đích: chúng ta phải HÀNH
ĐỘNG.
Nhớ
lại quyết nghị đồng thanh "Đánh!"của Hội Nghị Diên Hồng do vua Trần
Nhân Tông triệu tập khi xưa để học hỏi cách hành xử của vị vua thấm nhuần thiền
học: phải đạt được sự đồng tâm nhất trí của mọi giới, phải đánh thức và phát
huy được ý thức tự chủ và tinh thần tự lực tự cường của dân Việt.
Nhưng
làm sao một dân tộc còn có hy vọng đạt được sự đồng tâm nhất trí của mọi giới
khi những chữ "tha thứ" "hòa hợp", " hòa giải"
đối với người Việt Nam trong đại đa số trường hợp đã trở thành một chất gây
tình trạng sốc phản vệ (anaphylactic shock)? Dị ứng nhanh chóng và mãnh liệt
tới nỗi không còn kịp nhận định "tha thứ" thì ai tha thứ ai, tha thứ
cái gì, "hòa hợp" thì ai hòa hợp với ai, "hòa giải' thì ai hòa
giải với ai, có thù hằn xích mích khác biệt chống lại nhau ra sao mà cần hòa
giải?
Mà
tại sao lại cứ phải luẩn quẩn với "hòa hợp hòa giải"?
Chúng
ta cần vượt khỏi những khái niệm cũ về cả vật chất, tinh thần và cảm xúc để có
một nhận thức mới đưa đến sức mạnh hành động.
Nước
Việt Nam hiện nay có xấp xỉ 90 triệu dân, trong đó có khoảng 3 triệu đảng viên
cộng sản và gần 4 triệu người Việt Nam ở hải ngoại. Như vậy vận mạng của dân
tộc Việt Nam, trước hết là vận mạng của hơn 80 triệu dân trong nước, và lụn bại
hay thành công trong việc xây dựng nền tự do dân chủ cũng tùy thuộc ở những
đồng bào này. Người trong nước là những người gánh chịu mọi hậu quả và cũng là
những người phải gánh trách nhiệm trên vai.
Những
người dân đang trực tiếp bị đàn áp là những người dân trong nước. Vậy thù oán,
chia rẽ hay đoàn kết với nhau để chiến thắng bạo quyền đang đày ải họ, phải tùy
nơi người dân trong nước là chính. Nếu một mai thắng rồi, hành xử với những kẻ
thuộc nhóm bạo quyền ra sao thì rồi cũng tùy sự quyết định của họ.
Những
người Việt sống tại hải ngoại, không đang phải chịu chung số phận của người dân
trong nước. Sự tự do no ấm của mỗi người chỉ tùy thuộc vào quốc gia nơi người
đó sinh sống. Nếu còn quan tâm đến sự tự do no ấm của đồng bào ruột thịt nơi
quê mẹ thì thiết nghĩ chúng ta chỉ có thể tùy theo khả năng của mình để cố công
góp sức với họ trong cuộc tranh đấu của họ, và đồng thời thông cảm cùng
kính trọng những quyết định và con đường họ đã lựa chọn tranh đấu tùy theo sức
lực, hoàn cảnh, và sự suy xét của họ.
Người
Việt sống tại hải ngoại chỉ có khả năng chận đứng những dối trá lừa bịp của nhà
cầm quyền VN hiện tại và tìm sự hậu thuẫn của thế giới cho thế lực dân tộc.
Nhưng bài học lịch sử cũng đã dạy chúng ta, cầu ngoại viện mà không có tự lực
thì sẽ thành vong nô. Do đó thế lực dân tộc mạnh hay yếu phải tự lực đến từ hơn
80 triệu dân trong nước.
Điều
đáng lo ngại nhất cho Việt Nam là sự xuất huyết những tinh anh của dân tộc, một
sự xuất huyết thường trực từ dưới thời pháp thuộc kéo dài đến thời chiến tranh
và rồi tới sự thanh toán triền miên những người tài của bạo quyền cộng
sản.
Việt
Nam cần bảo vệ những tinh anh còn lại, cần dồn nỗ lực để cứu những chiến sĩ dân
chủ đang bị đàn áp và trong vòng tù tội. Điều đó, lực lượng người Việt tại hải
ngoại có thể làm được, không cần biết những chiến sĩ dân chủ sau khi thoát gông
cùm cộng sản bị đẩy ra hay chính họ lựa chọn ra nước ngoài.
Việt
Nam đã có quá nhiều "anh hùng quá cố", chúng ta không cần nhiều hơn
nữa.
Tương
lai dân tộc nằm trong tay những người còn sống, có kinh nghiệm chống cộng sản
và có tinh thần trách nhiệm.
Nếu
một người Việt tại hải ngoại nghĩ rằng một chiến sĩ dân chủ khi rời quê mẹ sẽ
trở thành vô dụng thì chính người đó đã suy nghiệm từ bản thân mình là kẻ bất
lực. Nếu một người Việt trong nước nghĩ vậy thì người này thiếu suy xét vì làm
sao có thể không nhìn thấy những thành công của cộng đồng người Việt tỵ nạn
cộng sản trong việc đánh động và được thế giới lưu tâm cũng như hậu thuẫn đòi
nhân quyền, tự do, cho người dân Việt và tố cáo hành động xâm lấn của Trung
Cộng?
Sự
xuất hiện của những tổ chức xã hội dân sự trong và ngoài nước, những trao đổi
và hợp tác giữa đôi bên đã thành hình và đang tiến triển. Liệu dân tộc Việt lần
này có thành công cùng đứng dậy để hoàn thành Sự Nghiệp Việt Nam?
No comments:
Post a Comment