Thứ Bảy, ngày 26 tháng 4 năm 2014
Một lần nữa, ngày 30 tháng Tư lại sắp về, gợi nhớ kết thúc nghiệt
ngã của chiến tranh Việt Nam 39 năm trước. Truyện ngắn sau đây ghi lại
những nét bi tráng của người lính Việt Nam Cộng Hòa trong giờ thứ 25 của cuộc
chiến năm xưa.
*
Hai mươi cây số đường chim bay, điều đó có nghĩa là bốn, năm mươi cây số
đường núi mà tốc độ di chuyển băng rừng có nhanh lắm cũng chỉ đạt tới 7
cây số một ngày.
Cả bốn tay súng của toán thám sát Biệt Cách Nhảy Dù
vẫn bố trí lưng chừng đồi theo hình cánh cung để bảo vệ người toán trưởng và
hiệu thính viên đằng sau lưng họ trên đỉnh đồi từ nãy giờ đang hướng mặt về
phía đối diện để quan sát đám người lố nhố dưới kia, trong thung lũng trải dài
hai bên con suối ngoằn ngoèo như con rắn bạc lấp lánh dưới ánh nắng ban trưa
chói chang của một ngày đẹp trời tháng tư. Hết quan sát những người xê dịch dưới
thung lũng lại cúi nhìn đồng hồ, người trưởng toán có vẻ nôn nóng.
- Ít nhất
là một tiểu đoàn. Có thể là K 25B công binh như tin tình báo cho hay. Mẹ kiếp,
máy bay lên chậm thế này để chúng di chuyển hết thì hoài công.
- Không
sao đâu, ông thầy. Bọn nầy có vẻ còn ở đây lâu đấy, vì nhiều tên còn đang tắm,
thậm chí giặt giũ nữa kia.
Bỗng hiệu thính viên Thịnh đưa ống liên hợp cho thiếu úy Tuấn:
- Thằng L
19 đang lên vùng và cần gặp ông thầy.
Tuấn bóp
chặt ống liên hợp, đưa lên miệng:
- Họa Mi
đây Thạch Độ, trả lời.
Giọng
miền Nam của viên phi công vang lên trong ống nghe:
- Thạch
Độ đây Họa Mi, bạn điều chỉnh hướng bay khi bắt đầu thấy tôi để xác định vị trí
bạn, trả lời.
- Họa Mi
đây Thạch Độ. Tình thế khẩn cấp lắm, tôi sẽ nháy mắt để anh có thể thấy tôi
nhanh hơn, trả lời.
- Tôi
nhận bạn năm trên năm, và trực máy.
Tuấn đưa
tay vẫy Tâm, một toán viên dưới lưng chừng đồi đang ngoái đầu nhìn lên anh.
Khi người lính vừa bò đến gần Tuấn khẽ ra lệnh:
- Mày ra
chỗ lúc nãy chờ, khi thấy thằng L 19 thì chiếu kiếng cho nó thấy mình.
Lần hành
quân nào cũng vậy, Tuấn chỉ giao công tác chỉ điểm này cho Tâm. Không hẳn vì
anh chàng làm công việc này giỏi hơn các toán viên khác - Tuấn có bao giờ sát
hạch môn này cho cả toán đâu mà chấm điểm được - nhưng tình cờ một lần giao
công việc này cho anh lính và thấy được việc nên Tuấn chẳng muốn “thay
đổi nhân sự”.
Gài khẩu
M 16 vào khoen leo núi móc gần vai bên phải, Tâm bò về phía mõm đồi cỏ tranh
cách xa bên trái của Tuấn khoảng một trăm thước. Lúc mọi người vừa thoáng thấy
chiếc máy bay quan sát màu trắng ở nẻo xa thì Tâm cũng vừa quỳ tại bãi cỏ tranh
ngập nắng, rút từ túi áo trên cái kiếng hình chữ nhật chỉ hơi lớn hơn chiếc hộp
quẹt Zippo và nâng lên ngang mắt, nhìn từ phía sau kiếng qua lỗ nhắm ở trung
tâm kiếng để hướng cái chấm đỏ của tia mặt trời nằm thẳng hàng với phi cơ đang
bay. Đoạn anh ta khẽ lắc nhẹ để tạo sự nhấp nháy. Bỗng một tràng tiếng nổ dòn
vang lên, cùng lúc Tâm bật ngửa ra sau rồi nằm bất động. Cả toán biết điều
không lành đã đến với người đồng đội, ghìm súng ở tư thế đối đầu với mọi hướng.
Thịnh nằm cạnh Tuấn khẽ nói:
- Đ.M.
tụi nó ở đầy cả rừng rồi!
Tuấn chưa
kịp đáp lời người lính mang máy truyền tin thì những quả đạn sơn pháo 75 ly,
đạn cối 82 ly, và những loạt AK 47 thi nhau đổ về phía toán đang bố trí trên
đồi. Cành cây, đất đá bắn tung tóe vào thầy trò Tuấn. Không cần lệnh của người
toán trưởng, mỗi toán viên nằm thủ tại chỗ. Họ biết trong tình thế loại này
tháo chạy hoặc co cụm lại với nhau chỉ tổ lãnh thêm thiệt hại. Tuấn nhìn qua
các toán viên và thấy tất cả còn “nguyên”. Thịnh trao ống liên hợp cho Tuấn:
- L 19
gọi.
Tuấn chụp
máy :
- Họa Mi
đây Thạch Độ.
- Đây Họa
Mi, tôi vẫn chưa thấy bạn nhưng thấy nhiều cột khói và nhiều lằn chớp dưới đó.
- Đang bị
ném đá. Tôi đang ở hướng ba giờ của anh.
Sau hai
lần “bẻ góc” nữa, chiếc máy bay quan sát từ xa gióng chính hướng ngọn đồi lướt
tới. Tuấn cho viên phi công biết đang bay đúng hướng và sẽ báo cho anh ta biết
khi nào máy bay vừa ngang qua đỉnh đồi. Súng địch vẫn nổ dòn, mưa đạn vẫn tới
tấp đổ về ngọn đồi, khiến công việc điều không của anh càng khó khăn. Nằm dài
trên mặt đồi để tránh tầm đạn đi, bên chiếc máy truyền tin, tay cầm ống nói áp
sát một bên tai, mắt vẫn ngước lên dõi theo chiếc L 19 trên không đang tiến gần
vị trí mình, rồi ngay lúc nó vừa ở trên đầu, Tuấn bóp ống liên hợp, nói như
reo:
- Họa Mi,
anh đang ở ngay trên đầu tôi, trả lời!
- Thạch
độ đây Họa Mi. Nhận bạn rõ năm. Rất tốt.
- Họa Mi
đây Thạch Độ. Cứ trực máy, tôi sẽ có việc cho anh.
Tuấn vừa trao
ống liên hợp cho Thịnh tiếp tục liên lạc với máy bay để bò gần về phía bìa rừng
quan sát trảng cỏ tranh, thì thình lình tiếng súng im bặt. Mấy giây sau cả rừng
vang tiếng thét “xung phong”. Rồi trước mặt Tuấn, từ hướng mõm đồi cỏ tranh nơi
Tâm quì chỉ điểm cho phi cơ vừa rồi, và từ hướng trước mặt toán lố nhố người cứ
ùn ùn tiến tới. Hóa ra đợt bắn phá vừa rồi là trò đánh phủ đầu để bộ binh tiến
sát. Bóng dáng những bộ quân phục kaki màu lá cây, nón tai bèo cứ xông lên bất
kể những tràng đạn M 16 đốn ngã từng đợt người. Khoảng một trung đội địch tiến
hàng ngang đã lên tới đỉnh đồi, cách bọn anh không đến mười thước, với tiểu
liên AK kẹp nách bắn xối xả. Một tên địch gần Tuấn hơn ria một tràng đạn về
phía anh, nhưng, như một phép lạ, anh vô sự. Thịnh nhanh tay siết cò súng hạ
hắn đo đất. Nhiều tràng M 16 đáp lễ ngăn được chốc lát sự “tiếp cận” kia. Lúc
này hai chiếc A 37 cũng vừa xuất hiện và bay cao hơn chiếc L 19. Trung sĩ Hiến
báo cáo hai sự kiện dồn dập: Châu bị nguyên một tràng đạn AK vào ngực, chết
ngay trên đồi, và địch bây giờ tràn lên đông hơn. Tuấn ra lệnh cả toán rút
xuống triền dốc về phía thung lũng. Anh biết thung lũng đang có một đơn vị lớn
của địch. Anh chỉ muốn bỏ ngọn đồi, men theo triền dốc, rồi xin phi pháo đánh
ngay trên đồi để toán tiện bôn tẩu. Nhưng di chuyển một đoạn ngắn thì nhiều
tràng AK từ dưới chân đồi khạc đạn xối xả về phía bọn anh. Không xong. Tứ bề
thọ địch. Chỉ vỏn vẹn bốn tay súng mà tử thủ với biển người hay liều mạng phá
vòng vây trùng trùng của địch thì phỏng ích lợi gì? Tuấn bấm ống liên hợp:
- Họa Mi
đây Thạch độ.
- Họa Mi
nghe. Bạn cho biết cần gì?
- Anh cho
đánh ngay trên đầu chúng tôi.
- Không
được! Bạn xác nhận lại, đánh ở đâu?
- Tôi,
thẩm quyền Thạch Độ nhắc lại đánh ngay trên đầu chúng tôi và bất cứ chỗ nào có
người. Địch tràn ngập rồi, không chần chờ gì nữa. Đánh ngay đi. Dứt!
Tuấn trả
máy cho Thịnh trước vẻ mặt hốt hoảng của anh này. Không có thì giờ và cũng
không cần giải thích về quyết định của mình với người lính truyền tin của toán,
Tuấn nép sau một thân cây to để tránh các tràng tiểu liên AK từ dưới chân đồi
vẫn không ngừng quạt lên. Trên đỉnh đồi bây giờ đã lố nhố người của đối phương.
Bốn người thám sát Biệt Cách Dù chỉ còn biết tử thủ: Hiến và Sắc chĩa súng về
hướng đỉnh đồi, còn Tuấn và Thịnh quay súng xuống chân đồi. Cả bốn tay súng
chiến đấu trong một ô vuông mỗi cạnh khoảng mười thước. Họ bắn dè xẻn từng ba
phát một nhưng rất hiệu quả, và nhờ vậy đã làm chậm bước tiến của địch. Trong
khi đó chiếc L 19 vẫn chưa chịu thi hành điều Tuấn yêu cầu, cứ bay lòng vòng
bên trên. Anh “thông cảm” cho người phi công, nhưng không khỏi tức giận vì cảnh
dầu sôi lửa bỏng của mình. Anh ta phải xin lệnh từ Trung Tâm Không Trợ về điều
yêu cầu “điên khùng” kia, và chắc đang chờ trả lời. Tuấn cũng lấy làm lạ lần
này không có biệt đội trưởng hay một sĩ quan của Liên Đoàn bay L 19 hay trực
thăng C&C như mọi lần. Thình lình mọi người cùng nghe rõ âm thanh
“chéo-éo-éo ... đoành!”. Một cột khói trắng bốc cao và cuồn cuộn tỏa ra như một
đám mây, vươn lên khỏi tàng cây rừng ngay đỉnh đồi mà toán thám sát vừa rời bỏ.
Tuấn biết viên phi công quan sát vừa bắn một trái khói chỉ điểm mục tiêu oanh
kích. Điều yêu cầu của anh đang được đáp ứng. Tuấn vẫn nép sau thân cây. Rồi
anh bỗng thấy hành động nấp sau thân cây rõ lẩm cẩm vì biết bom sẽ rơi hướng
nào. Nhưng đành phó mặc cho may rủi, anh cứ ngồi bên gốc cây. Tuấn tưởng chừng
như anh đang gồng mình lại, các bắp thịt toàn thân như rắn lại, chờ đợi sấm sét
giết người từ trời cao ... Chiếc oanh tạc cơ thứ nhất đâm bổ xuống ngay trên
đầu Tuấn, rồi hẳn nhiên đã đạt tới một độ thấp vừa đủ, con chim sắt ấy lại vút
lên cao vài giây trước khi hai trái bom từ dưới cánh đâm thẳng xuống quả đồi
của anh. Tuấn không dám tiếp tục ngẩng nhìn lên trời. Anh nằm cúi mặt xuống,
thân chịu trên hai cùi chỏ để tránh áp ngực với mặt đất. Anh thấy vài con kiến
ung dung bò trên nền lá khô. Thốt nhiên Tuấn cảm nhận được cái mong manh của
thân xác mình lúc này - khác gì những cái kiến kia! Chỉ có mỗi một khác biệt là
anh đau khổ chờ đón cái chết chóc, cái hủy diệt, còn chúng thì không hay biết
gì cả, vẫn thản nhiên, vẫn ung dung cho đến khi nào cái chết xảy ra là xong,
không còn cảm giác nữa. Chúng hạnh phúc hơn anh trong lúc này. Từng khuôn mặt
thân yêu trong gia đình diễn hành nhanh qua trí anh: mẹ anh, các em, và chị.
Rồi anh nghĩ đến Trinh thật xa xăm và cũng thật gần. Anh có còn trở lại cổng
trường Trưng Vương nữa không? Rồi bên tai anh nghe mơ hồ giọng một ca sĩ quen thuộc
với “em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại. Xin trả lời mai mốt anh về...”
Tuấn lại nghĩ đến tập thể tuổi trẻ Sài Gòn: không có anh trong đó! Và trong cái
khoảnh khắc chờ đón một sự hủy diệt khủng khiếp sắp giáng xuống mọi người, một
khoảnh khắc rất ngắn nhưng cũng rất thiên thu, giác quan anh đón nhận cả một
trình tự ngoại vật lướt qua chóng vánh: âm thanh động cơ phản lực gầm thét qua
đầu, tiếng bom xé gió, hàng loạt tia chớp lóe lên, từng tràng tiếng nổ kinh
hồn, và mặt đất rung chuyển. Tuấn bị nhiều nguồn lực từ mọi hướng đẩy bật ngửa
rồi xô tới trước hoặc xoay vòng; anh có cảm giác ngực bị ai đấm một quả rõ
mạnh, tức đến khó thở. Đất, sỏi ùn lên hắt vào người anh. Khói đen tỏa ra chung
quanh, không khí khét lẹt mùi thuốc nổ. Tuấn biết một trái bom đã đáp cách anh
không xa, đào một hố rõ to và làm dạt một mớ cây nhỏ bên trái anh, tung tóe đất
lên quần áo anh. Riêng thân cây to vẫn đứng vững và hiển nhiên đã hứng hết
những mảnh bom, đất đá và sức ép cho anh. Anh sờ khắp người để thấy mình vô sự.
Trái bom khác rơi trên đỉnh đồi đã bật gốc một cây cổ thụ, tạo nên một âm thanh
phụ nghe đánh ầm và làm trống hẳn một khoảng rừng.
Tuấn bò
qua những cành cây gãy đổ ngổn ngang, tìm Thịnh nhưng không thấy hắn đâu cả.
Trong mọi tình huống anh phải có máy bên cạnh mình. Nhưng chiếc A 37 lại đang
đâm bổ xuống đầu Tuấn một lần nữa. Anh vội ngồi nấp sau một thân cây. Có lẽ đây
là chiếc thứ hai, đang theo gót phi tuần trưởng của nó vừa rồi. Dù sao thì anh
sắp hứng chịu một “trận đòn thù” nữa. Lại “ầm! ầm!” rồi mấy tiếng “ầm” phụ nổi
lên. Tuấn lại bị lộn nhào một lần nữa, và anh giật bắn người khi thấy một cây
cổ thụ vừa bật gốc ngã sóng soài cách anh không đầy một thước. Giá mà nó phang
ngay anh thì còn gì nữa! Ngọn đồi bỗng “đổi mới”; cây ngã la liệt. Tuấn vẫn tìm
Thịnh, tìm trung sĩ Hiến - người toán phó - và Sắc. Toán may ra thì còn
được bốn mạng, kể cả anh. Tâm và Châu đã ra đi rồi! Nhưng sao thế này: im phăng
phắc - địch đâu rồi, và ta đâu rồi? Bỗng lá cây lay động sột soạt sau lưng.
Tuấn quay phắt lại, khẩu M 18 dưới nách chỉ thẳng vào bóng người từ trong bụi
rậm vừa đứng lên.
- Sắc đây
ông thầy.
Tuấn thở
phào một cách dễ chịu. Anh khẽ nói:
- Mày
không sao chứ?
Anh lính
khẽ lắc đầu thay lời đáp. Tuấn biết mình vừa hỏi một câu không cần trả lời; nó
chỉ có nghĩa của một câu xác định, “à, may quá còn có mày.” Anh đang lo cho số
phận của các toán viên.
- Trung
sĩ Hiến và Thịnh có sao không?
Sắc vừa
nói vừa đưa tay chỉ về hướng hơi chếch đỉnh đồi:
- Ông
Hiến bị thương nằm ở đằng kia. Ổng hỏi thăm ông thầy, và bảo em đi tìm.
Tuấn muốn
đến gặp ngay trung sĩ Hiến xem tình trạng thương tích của ông ta ra sao, nhưng
anh phải tìm Thịnh trước vì máy móc truyền tin là linh hồn của toán. Hai chiếc
phản lực bây giờ đang ở tít trên mây; tiếng động cơ của chúng nghe nghe rất xa
và đứt đoạn. Chiếc L 19 vẫn quầng trên đầu hai người. Có lẽ viên phi công đang
gọi Thạch Độ khàn cả tiếng, Tuấn nghĩ thế. Quái, Thịnh biến đâu mất với chiếc
máy truyền tin. Tuấn vẫn nhớ hắn chạy theo sau anh và nấp gần đây trước khi bom
rơi. Tuấn bỗng nẩy ra ý nghĩ bới tìm trong mớ cây cối đổ ngổn ngang ngay cạnh
hố bom. Và trong lúc hai thầy trò đang len lỏi bò vào từng đống cây lá nằm bên
trên hoặc bị vùi lấp dưới lớp đất mới thì phía trảng cỏ tranh một tiếng nổ phát
ra và một cột khói trắng bốc cao. Anh biết viên phi công máy bay quan sát vừa
bắn một trái chỉ điểm cho phản lực đánh bom xuống nơi anh ta vừa thấy địch ẩn
núp đâu đó.
Trong
tiếng rít của hai chiếc A 37 trên đầu, tiếng rền và chấn động liên hồi
của bom, Tuấn chợt nghe giọng gọi đầy khích động của Sắc:
- Ông
thầy ơi.
Tuấn
nguớc nhìn theo ngón tay trỏ của người lính và thấy cách họ vài thước khúc cần
ăng-ten của chiếc máy PRC 25 nhú ra khỏi mớ đất vàng tươi mới tinh khôi dưới
mấy cành cây phủ lên. Anh lặng người mấy giây, cảm thấy đôi chân như
không đứng vững nổi. Giọng nói Tuấn nghe yếu ớt qua hơi thở:
- Moi đất
ra.
Hai người
hì hục lôi các cành cây bỏ sang một bên, dùng tay bới mớ đất bột lên. Chiếc máy
truyền tin bị thủng, móp méo, vỡ nhiều chỗ, từ từ lộ ra, rồi màu áo rằn ri bày
ra, dính đất và máu. Tuấn và Sắc cùng nâng người Thịnh đang nằm sấp lên. Xông
pha trận mạc đã nhiều, đã trông thấy bao nhiêu xác chết của cả đôi bên, nhưng
anh phải nhận chưa bao giờ thấy một xác người như thế này, nói chi xác ấy là
đồng đội, là thuộc cấp của mình. Cả người Thịnh từ bụng lên vai bị mất tùng
mảng thị lớn, và xương vai một bên bị gãy. Nhưng cái chân, ôi cái chân trái,
anh không biết phải nói thế nào ... đứt đến trên đầu gối, chỉ còn dính tòn teng
với toàn thân bằng một mảnh da rộng bằng một bàn tay, và thịt chỗ hai đầu bị
cắt lìa trở nên xám đen giống như vừa bị nướng trên lửa!
Sắc mở
thử máy truyền tin. Chỉ là một cục kim khí im thin thít vô dụng. Chợt nhớ tới
trung sĩ Hiến, hai người thận trọng di chuyển, và Sắc dẫn đường ngược lên đồi.
Họ bước qua nhiều xác lính Bắc Việt nằm đủ vị thế - nghiêng, ngửa, sấp, hay
cong queo. Tuấn cúi xuống bên người toán phó, xem xét vết thương ở bụng. Có vẻ
một mảnh bom đã cứa một đường dài và sâu trước bụng. Anh thử xốc người thương
binh lên nhưng anh ta nhăn nhó một cách đau đớn:
- Ối, ông
thầy để tôi nằm đi.
- Trước khi
bom nổ anh đã rút xuống triền dốc với toán mà sao lại ở đây?
Trên
gương mặt tái xanh vì mất nhiều máu của Hiến Tuấn thấy một sự cố gắng dùng sức
mới bật ra thành tiếng:
- Tôi
chạy lên để... kéo xác thằng Châu xuống... kẻo bom dần nát mất nhưng...
Hiến
ngưng nói, vẻ mệt nhọc, đưa lưỡi liếm quanh vành môi tái nhợt và khô khốc. Sắc
mở nắp bi-đông, khẽ nâng đầu anh lên và kề miệng bình nước vào môi. Tuấn nhắc:
- Cho
uống ít thôi để giữ cho máu bớt chảy.
Trong khi
tháo cuộn băng cá nhân để băng cho trung sĩ Hiến, Tuấn vẫn thận trọng quan sát
chung quanh. Anh thấy nhiều xác chết đối phương rải rác khắp nơi. Xác
Châu nằm cách trung sĩ Hiến khoảng năm thước, mắt còn nhìn lên trừng trừng. Anh
rón rén bò đến bên người toán viên vẫn hay di chuyển hàng đầu trong các cuộc
xâm nhập của toán, đoạn từ từ vuốt cho đôi mắt nhắm lại. Rừng im phăng phắc. Có
lẽ chúng chỉ di tản những kẻ bị thương. Những người nằm kia đều “câm nín”. Sau
khi đảo lại mấy vòng để bắn rocket và đại liên mười hai ly bảy xuống một điểm
mới dưới thung lũng do phi cơ quan sát chỉ điểm, hai chiếc phản lực đã rời
vùng. Chiếc L 19 vẫn còn lượn trên không phận hành quân. Tuấn vừa quay sang bảo
Sắc lấy chiếc pa-nô tìm cách trải để ra hiệu cho máy bay biết mình có mặt tại
chỗ thì bỗng rừng núi lại rền vang từng tràng nổ. Tuấn nói:
- Mười
hai ly bảy.
Chiếc L
19 vụt cất cao lên và mất hút vào khoảng không. Tuấn đề nghị khiêng trung sĩ
Hiến men theo triền dốc về hướng Bắc cho xa vùng giao tranh được bao nhiêu càng
tốt bấy nhiêu. Anh đoán địch sẽ chiếm lại đồi này. Bỗng dưng trung sĩ Hiến
quàng một tay ôm chặt chân Tuấn và thều thào nói:
- Ông
thầy đi đâu anh em cũng đi theo ông thầy. Bây giờ ông thầy bỏ anh em ...
Tuấn định
thốt một lời an ủi, hay trấn an nhưng bàn tay trung sĩ Hiến đã buông rơi khỏi
cổ chân anh, đầu ngoẹo sang một bên, mắt nhắm nghiền như đi vào một giấc ngủ.
Anh lay mạnh vai Hiến:
- Anh
Hiến! anh Hiến!
Chỉ có
tiếng gió ngàn xào xạc đáp lại. Rừng chiều hửng nắng ở những đồi xa. Sắc bỗng
vỗ vào cạnh sườn Tuấn và chỉ về hướng trảng cỏ tranh. Lố nhố một đoàn quân dàn
hàng ngang đang tiến lên đồi của anh. Họ vận kaki xanh, nón tai bèo, súng kẹp
nách, vai đeo ba lô. Hai thầy trò vội lom khom chạy về phía triền dốc, rồi di
chuyển về hướng Bắc men theo sườn đồi.
Đi được
một giờ, vượt qua vài con suối, mấy quả đồi thấp, Tuấn dừng lại xem bản đồ,
đoạn bảo Sắc đổi hướng, đi về đông theo phương giác 1800. Năm giờ chiều. Đêm
rừng bao giờ cũng đến nhanh. Trong ánh sáng nhá nhem hai thầy trò kẻ trước
người sau cứ tiếp tục luồn lách qua cây lá, bụi rậm. Rồi sực nhớ phải có một độ
quan sát tối thiểu mới có thể chọn một vị trí ngủ đêm an toàn, Tuấn khẽ nói với
người toán viên đồng hành:
- Ta lên
đỉnh đồi trước mặt tìm chỗ nghỉ đêm.
Mới hơn
bốn giờ sáng Tuấn đã thức giấc. Bao giờ người lính hành quân cũng thức giấc
sớm, vì giấc ngủ đến vào khoảng bảy giờ chiều thay vì một hai giờ sáng ở những
“đêm đô thị”. Trời còn tối mịt. Anh nằm nghe ngóng một lát, đoạn đưa tay sờ
lưng võng của Sắc. Một giọng nói rất khẽ:
- Ông
thầy thức rồi hả?
Rồi ánh
sáng nhờ nhờ đổi dần sang trắng đục. Rồi mọi vật bỗng hiện rõ trước một ngày
đang lên. Có vài tiếng chim hót. Có vài tiếng hú đâu đó bên một ngọn đồi khác,
rồi không biết bao nhiêu tiếng hú cất lên vang cả một vùng đồi núi, cơ hồ như
tiếng hú này lây sang tiếng hú khác, và cứ thế truyền đi khắp nơi. Tuấn đã quá
quen với các tấu khúc bình minh của rừng núi. Hai người cuốn võng bỏ vào ba lô,
dọn dẹp “sạch sẽ” chỗ đất dưới chân, lùa mớ lá cây chung quanh phủ lên, không
để lại một dấu vết nào có thể tố cáo sự hiện diện của hai thầy trò. Sắc mở một
bịch gạo sấy, rót nước từ bi-đông vào bao làm một bữa ăn sáng. Tuấn chẳng thấy
đói, tuy suốt ngày hôm qua anh chỉ ăn có một gói cơm sấy vào buổi sáng. Tâm trí
anh quay về với những gì đã xảy ra. Bị lộ, trận oanh kích, những xác đồng đội
bị bỏ lại, và bây giờ hai người lạc lõng giữa rừng không máy móc liên lạc để
biệt đội biết tung tích. Anh có trách nhiệm gì với những thuộc cấp vừa ra đi
vĩnh viễn kia? “Ông thầy đi đâu anh em cũng theo ông thầy. Bây giờ ông thầy bỏ
anh em ...” Tuấn thấy miệng đắng khi nuốt nước bọt. Anh thèm một điếu thuốc, và
một ly cà phê. Anh nhìn Sắc đang ngồi ăn, nhìn xuống khẩu M 18 gác trên đùi
mình, ngước nhìn bầu trời xanh biếc ban mai. Sắc vụt hỏi:
- Bây giờ
tính sao, ông thầy?
- Không
có máy móc, không biết ở nhà thế nào, còn ở nhà cũng chẳng biết mình sống chết
ra sao. Cứ tiếp tục đi về hướng Đông, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, càng gần
nhà càng tốt. Có trực thăng thì trải pa-nô cho nó thấy mình. Thế nào biệt đội
cũng cho máy bay đi tìm.
- Cha con
nó bị thiệt hại nặng. Hai chiếc A 37 đánh hiệu quả thật. Sườn đồi bên kia và
trảng cỏ tranh lãnh trọn mấy trái bom. Em thấy chung quanh chỗ ông Hiến nằm ít
nhất cũng cả chục xác nằm la liệt. Ông thầy có để ý không? Đợt bom đầu tiên
chận đứng ngay cuộc tấn công. Em nghĩ có lẽ chúng kêu phòng không đến tiếp cứu
sau này, vì suốt trong khi oanh kích đâu có khẩu mười hai ly bảy nào hoạt động
đâu.
Tuấn đồng
ý với phần lớn những lập luận của Sắc, nhưng anh chẳng thấy hứng thú bàn luận
về chiến trận vừa qua. Tỷ số tử vong của chiến trường và tỷ số tử vong của lòng
mình, cái nào làm nên chiến thắng? Đợi cho người lính ăn xong và đào đất lấp
mọi dấu vết, Tuấn đề nghị lên đường.
Sang đến
ngày thứ ba hai người vẫn tiếp tục băng rừng, ngày đi đêm nghỉ. Còn khoảng hai
chục cây số đường chim bay nữa mới về đến bộ chỉ huy của Liên Đoàn. Cả hai đều
thấy ngao ngán. Hai mươi cây số đường chim bay, điều đó có nghĩa là bốn, năm
mươi cây số đường núi, mà tốc độ di chuyển băng rừng - chứ không phải theo theo
đường mòn - có nhanh lắm cũng chỉ đạt tới bảy cây số một ngày.
Nhưng điều bất ổn trong lòng họ không phải đường về
dịu vợi, đầy đe dọa, bất trắc, lương thực cạn. Cái bất ổn là không trung vắng
lặn. Từ cái buổi sáng đầu tiên sau khi bỏ ngọn đồi và đồng đội ở lại anh và Sắc
không hề thấy thấp thoáng, dù xa, bóng dáng một chiếc máy bay. Lạ thật. Không
một chiếc trực thăng, không một chiếc L 19, không một chiếc vận tải, không một
chiếc oanh tạc cơ phản lực, thậm chí không một chiếc máy bay dân sự, không có
gì ráo trên bầu trời quang đãng. Chưa bao giờ như thế, ít ra từ ngày Tuấn vào
lính; chưa bao giờ có một ngày không có một hoạt động nào của không quân. Anh
ngồi nghỉ mệt trên một ngọn đồi, tựa lưng vào một thân cây, dựng súng bên cạnh.
Sắc ngồi xếp bằng trên mặt đất, cạnh Tuấn. Người lính cảm thấy bồn chồn khi
nhìn vẻ tư lự của người chỉ huy. Anh ta không dám hỏi bất cứ điều gì lúc này.
Tại sao bầu trời vắng lặng thế này? Sao không nghe một tiếng đại bác, một tiếng
bom nổ xa xa? và vân vân. Cuối cùng, không nén nỗi những băn khoăn trong lòng,
Sắc lên tiếng:
- Em thật
không hiểu nổi. Chắc có chuyện gì đây, chứ không thể nào Liên Đoàn đem con bỏ
chợ như thế này.
- Tao
cũng chịu thua, không hiểu nổi. Đành rằng mình không có phương tiện liên lạc,
không biết tình hình ở nhà hay các đơn vị bạn ra sao, nhưng Liên Đoàn vẫn có
thể cho trực thăng đi tìm. Đằng này bặt vô âm tín. Mà cái điều lạ lùng nhất là
không có bóng dáng một chiếc máy bay nào cả, chứ đừng nói trực thăng C&C
của biệt đội. Tao cũng nghĩ như mày: chắc có biến cố gì đây. Điều cần nhất bây
giờ là bằng mọi cách phải gắng về tới bộ chỉ huy Liên Đoàn. Mầy còn mấy gói gạo
sấy?
- Dạ ba
gói, và không tới nửa chai xì dầu.
- Tao còn
năm gói. Tao sẽ đưa thêm cho mày một gói. Mỗi thằng như vậy có bốn gói.Tao ước
tính từ đây về tới Liên Đoàn có thể mất sáu, bảy ngày nữa. Bây giờ tao tạm ấn
định kỷ luật dùng lương khô là mỗi thằng chỉ được ăn nửa gói một ngày. Cố gắng
chịu đựng như vậy thì mới đủ sức mà lết về tới nhà. Tao nói sáu, bảy ngày là
trong giả thuyết di chuyển vô sự, không đụng địch.
Điều Tuấn
nói sau cùng nhắc lại sự bất an của hai người. Trong ba ngày qua thầy trò anh
đã né tránh mấy đoàn quân dài dằng dặc. Trong đời nhảy toán của mình Tuấn chưa
bao giờ thấy địch chuyển quân rầm rộ như thế. Một điều lạ lùng nữa là những
đoàn người cứ nườm nượp hướng về Đông, cùng chiều với anh và Sắc, chỉ khác là
họ dùng đường mòn. Tuấn đứng dậy tháo ba lô đặt xuống đất, lôi một gói gạo sấy
đưa cho Sắc, đoạn cả hai lên đường.
*
Tuấn nhìn
đồng hồ tay: ba giờ chiều. Tuy gần cuối ngày, cái nắng như nung như đốt của
tiết trời miền Nam đầu tháng Năm vẫn chưa dịu đi chút nào. Đưa bi đông lên
miệng tu một ngụm nước xong, anh xoay xoay tấm bản đồ, nhìn thật kỹ những vòng
cao độ nâu lẫn xanh nhạt, rồi ngước nhìn địa thế chung quanh. Cho chắc chắn,
anh mở cái địa bàn, xoay cho hướng bắc của bản đồ trùng với hướng mũi tên của
địa bàn, đoạn anh đối chiếu chi tiết bản đồ với địa thế một lần nữa. Anh hân
hoan nói với Sắc:
- Tới
vùng Tân Uyên rồi!
- Chắc
không, ông thầy?
- Bảo
đảm!
Hai thầy
trò bỗng thấy khỏe khoắn trong người, mặc dù mới trước đó mấy phút họ cảm thấy
gần kiệt sức sau sáu ngày băng rừng lội suối với những cơn đói triền miên làm
bủn rủn chân tay, hoa cả mắt. Nhìn lại đoạn đường dài gian nan, hiểm nguy, Tuấn
thấy thương hại Sắc. Hắn ta to con, ăn khỏe, nên trong mấy ngày qua quả thật là
một chuỗi ngày khốn khổ “tận cùng bằng số” đối với hắn. Tuấn bảo:
- Bây giờ
mày có thể ăn nốt nửa bịch gạo sấy cuối cùng cho đỡ đói. Còn vài cây số nữa là
tới chi khu rồi, tha hồ mà gọi mì, phở, hủ tiếu...
- Lạ
thật, không thấy thèm nữa ông thầy ơi. Thôi, mình đi lẹ tới chi khu đặng báo
Liên Đoàn đón.
Hai người
lội qua một con suối, tiếp tục đi về Đông. Họ bước đi vững vàng hơn những ngày
còn lếch thếch giữa rừng. Sau khoảng một tiếng đồng hồ di chuyển, nhìn xuyên
qua một khoảng rừng thưa, hai người thoáng thấy mấy nóc nhà lợp tôn của chi khu
Tân Uyên ở tít đằng xa, bên kia sông. Cùng với bước tiến của Tuấn và Sắc, mọi
vật rõ dần. Rồi lá cờ phấp phới trên trụ cờ tuy vẫn còn mờ mờ trong quãng xa
nhưng đã đủ để thấy không phải lá cờ vàng ba sọc đỏ quen thuộc. Hai người không
tin nổi mắt mình: làm thế nào mà lá cờ nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao ở giữa lại
ngang nhiên tung bay nơi này. Thầy trò nhìn nhau, nhưng mỗi người theo đuổi
những suy nghĩ riêng. Sắc bỗng vỗ vai Tuấn chỉ về phía con sông trước mặt, vẫn
ở nẻo xa và chen vào giữa khoảng cách từ chỗ họ đến chi khu: vài chiếc
ghe cũng treo loại cờ đó. Nhìn qua mấy mái nhà tranh gần bờ sông cũng lại thấy
những lá cờ đó. Sắc khẽ nói:
- Chắc
chúng chiếm vùng Tân Uyên rồi. Không khéo Biên Hòa cũng di tản chiến thuật nốt.
Tuấn nói,
để tự trấn an hơn là làm yên lòng người thuộc cấp:
- Không
thể có chuyện đó được.
Chợt nhìn
bên trái, qua một khoảng rừng chồi lưa thưa, thấy có mấy người nông dân đang
cuốc đất trong một thửa ruộng, anh chợt nẩy ra ý nghĩ đến tiếp xúc họ để dò hỏi
tình hình. Tiến sát mảnh ruộng, để Sắc ngồi lại trong một bụi cây yểm trợ, Tuấn
cầm khẩu M 18 trong tay phải, bước đến bên bốn người đang làm việc đồng áng. Họ
ngừng tay, nhìn anh chằm chặp. Tuấn hỏi người lớn tuổi nhất trong nhóm người,
một ông già khoảng năm mươi, xương xẩu nhưng còn nhanh nhẹn:
- Thưa
Bác, hình như chi khu đã rút đi rồi, phải không ạ?
Gương mặt
thoáng bối rối, ông nhìn Tuấn từ đầu đến chân rồi nói rất khẽ:
- Chú là
biệt kích 81 trong rừng mới ra hả?
- Dạ
phải.
- Ông
Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng từ năm, sáu ngày nay rồi, từ hôm ba mươi tháng
Tư. Ai nấy đều buông súng trở về nhà hết. Chính phủ Cách Mạng chẳng làm khó dễ
gì cả. Anh em còn bao nhiêu người?
Tuấn
chẳng còn nghe rõ ông già hỏi gì nữa. Anh cúi đầu rất lâu. Giòng ý thức của anh
bỗng như ngừng lại - không hẳn là nó đặc quánh lại, cũng không hẳn nó trống
rỗng, chỉ biết nó tuồng như không còn khả năng suy nghĩ rõ ràng, mạch lạc nữa.
Tuấn có cảm tưởng sau bao nhiêu suy đoán, thắc mắc, giờ đây được thực tế trả
lời, trí não mình bỗng thấy “no” rồi, không đòi hỏi nữa, cũng không nhận dữ
kiện nào từ ngoại giới nữa! Sắc từ trong bụi vội bước ra. Nhìn dáng điệu của
người toán trưởng anh đã đoán tình hình hẳn là rất xấu. Trong ánh mắt ái ngại,
ông cụ lặp lại cho người lính thứ hai nghe:
- Ông
Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng hôm ba mươi tháng Tư rồi. Các chú nên bỏ súng
ống đi, trở về gia đình thôi.
Đến lược
Sắc đứng đờ người ra. Lúc ngồi trong bụi anh đã đoán tình hình phải xấu, anh đã
lờ mờ phác họa một vài viễn anh tệ hại, nhưng “xấu” như ông già này cho biết
thì thật vượt quá xa dự tưởng của anh.
Đột nhiên
Tuấn ngước lên chào từ giã:
- Tụi
cháu cám ơn Bác. Thôi, tụi cháu về.
Tuấn bước
đi trước, và Sắc theo sau. Họ tiến về phía bờ sông. Hai người đứng nhìn giòng
sông êm ả, trong vắt một hồi lâu. Rồi Tuấn nhìn Sắc, ngập ngừng vài giây, nói
với một giọng hơi lạc đi, nhưng không kém dứt khoát:
-
Qua bên kia sông, có thể đi bộ ra đến xa lộ, từ đó đón xe về Sài Gòn. Sắc, thôi
thầy trò mình chia tay. Kể từ giờ phút này tao không còn là trưởng toán của mày
nữa. Cứ tự do về với gia đình. Tao chỉ muốn nói một điều. Trong những ngày mày
theo toán, nếu tao có làm những gì khiến mày buồn lòng, hoặc vì trách nhiệm,
hoặc vì sai lầm, tao mong mày bỏ qua cho. Cầu chúc mày thật nhiều may mắn.
Sắc cố
bậm môi để giữ cho miệng khỏi bị méo xệch. Anh ta muốn nói cả nghìn lời nhưng
không thốt được một tiếng. Cúi gầm mặt xuống một lúc như cố đè cơn xúc động cứ
chực bật ra thành tiếng nấc, cuối cùng anh ta hỏi:
- Còn ông
thầy?
- Tao
không thể bỏ toán còn nằm lại trong đó.
- Nhưng
họ chết hết rồi mà.
- Chính
vì vậy mà tao thấy mình không thể về nhà được. Lời nói sau cùng của trung sĩ
Hiến rất đúng.
Tuấn ngập
ngừng một lát, định nói thêm điều gì nữa nhưng lại thôi. Anh sẽ mang những đắng
cay trong lòng mình vào rừng núi. Có lẽ anh chỉ cần nói điều đó với toán của
anh vẫn còn lại trong rừng: người lính ở đâu cũng thế, chỉ là công cụ; thắng
bại không phải do họ định đoạt, và vinh quang của chiến thắng cũng không thuộc
về họ - có thuộc về họ chăng chỉ là những đau khổ của chiến bại và của hy sinh!
Tuấn quay
lưng đi về hướng khi nãy hai thầy trò từ trong rừng ra. Trong một thoáng cõi
lòng Sắc như hứng chịu bão táp tơi bời từ mọi hướng. Tìm về xa lộ sao ngập
ngừng bước chân. Anh muốn rảo bước theo sau người toán trưởng, nhưng hình ảnh
những đường phố Sài Gòn thân thuộc giờ đây không xa lắm như níu chân anh, dù
anh nghĩ nơi ấy chắc cũng đang phấp phới những lá cờ này. Rồi hình ảnh mẹ anh
hiện ra thật rõ và bao trùm cả không gian. Sắc gọi:
- Ông
thầy!
Tuấn quay
lại. Sắc đứng ở thế nghiêm, đưa bàn tay phải lên ngang mày chào. Tuấn chào đáp
lễ, đoạn quay gót tiến bước. Người lính đứng nhìn theo cái dáng gầy, phong
sương xa dần rồi khuất sau ngàn lá. Anh ta lại nhìn những dãy núi xa xa ở chân
trời.
... cái dáng gầy, phong sương xa dần rồi khuất sau ngàn lá.
Núi ở chân trời bao giờ cũng xanh lơ. Chắc toán của
anh đang nằm trên một trong những dãy núi đó. Chắc người trưởng toán lại trèo
lên nơi ấy. Sắc không sao ngăn nổi mấy giọt nước mắt từ từ lăn xuống, quyện với
mồ hôi làm lưỡi anh mặn chát.
Hà
Kỳ Lam
No comments:
Post a Comment