Tiziano Terzani
Der Spiegel số 18/1985
Tháng Tư 28, 2014
Mười năm sau chiến thắng của người cộng sản và thống
nhất về mặt hình thức của Việt Nam, thất vọng nhiều nhất chính là các trí thức
của miền Nam, những người đã chiến đấu chống chế độ của Thiệu trong Mặt trận
Giải phóng hay có thiện cảm với họ và vì vậy mà bị truy nã.
“Tất cả những gì mà Mặt trận Giải phóng đã hứa hẹn
thì đều bị Hà Nội hủy bỏ, kể cả chính Mặt trận Giải phóng”, một thành viên
trước kia của Việt Cộng than thở.
“Người cộng sản từ miền Bắc chỉ tin vào chính họ.
Trong mắt họ, cả chúng tôi cũng là ‘bù nhìn’”, một nhà cách mạng nổi tiếng từ
miền Nam nói, người đã chiến đấu cho Việt Cộng 29 năm trời.
Sài Gòn, tháng Tư 1985, lễ kỷ niệm kết thúc chiến tranh. Hình: Philip
Jones Griffiths
Ngày nay, không ai trong số những người đã xuất hiện
như là lãnh tụ của Việt Cộng trong cuộc chiến là còn có ảnh hưởng nữa. Bà
Nguyễn Thị Bình, nữ bộ trưởng Bộ Ngoại giao duyên dáng của Việt Cộng, tuy là nữ
bộ trưởng Bộ Giáo dục ở Hà Nội, nhưng được cho là “nữ bộ trưởng trình diễn cho
người nước ngoài”. Người ta cho rằng các quyết định là do hai người phó của bà
đưa ra, những người thuộc Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Ngay đến Trần Văn Trà, tướng Việt Cộng, người đã
giải phóng Sài Gòn và cầm quyền vài năm, đã bị khóa miệng khi dám tranh cãi về
phiên bản giải phóng của Hà Nội trong một quyển sách. Quyển sách đó đã bị cấm.
Ngày nay, bốn nơi triển lãm chào mừng lần chiến thắng năm 1975 với hình ảnh,
tài liệu và vật kỷ niệm, những thứ mà các phái đoàn nước ngoài kính nể nhìn
ngắm, cả một phái đoàn từ Cộng hòa Liên bang Đức nữa, mang huy hiệu với hàng
chữ “Việt Nam là công việc của chúng tôi” ở trên ngực. Các vật triển lãm chỉ có
nhiệm vụ chứng minh cho một điều: vai trò của Hà Nội thời đó và sự lãnh đạo của
Đảng ngày nay.
Người ta ít nói về cuộc chiến tranh nhân dân khó
khăn mà Việt Cộng đã tiến hành ở miền Nam. Ngày nay, hình ảnh tượng trưng cho
lần giải phóng Sài Gòn là hình ảnh của chiến xe tắng Bắc Việt đã đè bẹp chiếc
cổng sắt dinh của Thiệu, thay cho hình ảnh của du kích quân nông dân Việt Cộng,
người lập những chiếc bẫy bằng tre và tiến hành một cuộc chiến tranh quy mô nhỏ
nhiều tổn thất ở hậu phương.
“Đó chính là lỗi của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ rằng
chúng tôi đã chiến đấu cho nền độc lập và thống nhất đất nước, nhưng thực tế là
Hà Nội đã đấu tranh để nền độc tài cộng sản chiến thắng”, bây giờ một linh mục
Công giáo nói, người đã hoạt động tích cực trong giới đối lập chống Thiệu.
Năm 1975, chế độ ra vẻ sẵn sàng khoan dung cho tất
cả các tôn giáo trong tương lai. Dường như họ đặc biệt nghiên về phía những
người Công giáo đã chiến đấu cho cuộc cách mạng. Không lâu sau khi giải phóng
Sài Gòn, tờ nhật báo Công giáo “Tin Sáng” cũng đã được phát hành, còn được
chính quyền giới thiệu nữa. Thiệu đã thất bại trong việc cho giết chết người
chủ và phát hành tờ báo, Ngô Công Đức, rồi sau đó đã cấm tờ báo này.
Trước đây hai năm, tờ báo bị ngưng hoạt động. “Tờ
báo đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của nó”, thủ tướng Phạm Văn Đồng bình luận ở
Hà Nội.
Ngô Công Đức, một nhà trí thức lỗi lạc, đã trở về từ
chốn lưu vong để phục vụ cho chế độ mới và giúp tái xây dựng, bây giờ vẽ tranh
sơn mài để xuất khẩu. Cũng như tất cả mọi người Việt, ông cần một giấy phép đặc
biệt nếu như muốn tiếp một người nước ngoài.
Dần dần, nhưng có hệ thống, người cộng sản đã gây
khó khăn cho việc thực hành tín ngưỡng. Những người Công giáo chống đối cũng
như các lãnh tụ của Hòa Hảo và Cao Đài đều bị bắt giam và khóa miệng, chùa Ấn
Quang nổi tiếng, trung tâm đối lập của Phật giáo chống Thiệu, bị giám sát
nghiêm ngặt, người lãnh đạo về mặt tinh thần của nó, nhà sư Thích Trí Quang, bị
quản thúc tại gia.
Bộ máy Đảng và hành chánh của Bắc Việt Nam đã đứng
vững ở miền Nam mà không gây ra nhiều chống đối. Trong những năm đầu tiên còn
có những tổ kháng chiến vũ trang chống lại những người chủ mới. Một đài phát
thanh bí mật còn giữ được hy vọng của một bước ngoặc trong một khoảng thời
gian. Tất cả những điều đó đã qua rồi. Chế độ mới không còn gặp chống đối chủ
động nữa. Con người đã chấp nhận sự việc, rằng họ phải đối phó với hệ thống
này.
Sài Gòn1985 – Ngã tư Nguyễn Huệ-Ngô Đức Kế. Hình: Philip Jones Griffiths
Một cảnh sát trên một trăm gia đình và một mạng lưới
chỉ điểm khó nhận biết giữ người dân trong vòng kiểm soát, những người trước
sau gì thì cũng phải cần giấy phép để đi lại hay qua đêm ở nhà bạn bè. “Công
an” (an ninh công cộng) là tổ chức đáng sợ nhất đối với tất cả các người Việt.
“May là có thể mua được họ”, một người buôn bán nói
mỉa mai về các cảnh sát. Tất cả đều có giá của nó, từ thị thực xuất cảnh cho
tới việc phân cho một chỗ làm.
Với một vài tờ tiền, người ta có thể tránh được
nhiều hình phạt: một người đi xe đạp bị chận lại vì không chú ý tới đèn đỏ nhét
20 đồng vào tay người cảnh sát. “Không, không”, người này nói, “tôi phải
nhìn thẳng vào mắt Bác Hồ.” Người đi xe đạp hiểu và thay vì tờ 20 đồng, mà trên
đó chỉ nhìn thấy ảnh chụp nghiên của Hồ Chí Minh, đã đưa ra tờ 50 đồng, cái thể
hiện hết gương mặt của ông ấy. Người cảnh sát cầm lấy.
Tham nhũng là lệ thường, không phải là trường hợp
ngoại lệ. “Lênin nói rằng chủ nghĩa xã hội là quyền lực Xô viết cộng với điện
khí hóa”, một người bạn nói đùa. “Trong chế độ này thì nó là quyền lực công an
cộng chợ đen.”
Điều thường được chấp nhận, là mỗi người đều cố gắng
để sống qua ngày, trong khả năng của người đó. Vì thế mà thầy giáo bán bánh cho
học trò, lính lấy trộm xăng từ xe quân đội, nhân viên hải quan tận tâm ở phi
trường tịch thu tất cả các băng video của người nhập cảnh: với lý do phải kiểm
tra nội dung, thật ra là để tổ chức những buổi trình chiếu tư ở gần khách sạn
Tong Binh. Giá vào cửa: 50 đồng một người.
Sài Gòn 1985 – Nghĩa trang máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Hình:
Philip Jones Griffiths
Cán bộ Đảng đã du nhập thông tục của miền Bắc vào
Nam, nuôi heo trong nhà ở của họ và cho chúng ăn bằng thức ăn gia súc của nhà
nước.
Thành phố Sài Gòn thanh lịch của ngày xưa gặp heo
như thế đó. Ở khắp những nơi có cán bộ sống, người ta nghe được tiếng heo kêu
và đánh hơi, ngay cả tướng cao cấp của quân đội cũng chú ý tới việc có một con
heo trong phòng khách của họ, khi họ mời khách đến nhà ăn tiệc: con vật phục vụ
như là một lời giải thích cho mức sống cao đó, cái mức sống mà ngoài ra thì chỉ
có thể xuất phát từ buôn bán ngoại tệ hay buôn thuốc phiện ở Lào và Campuchia.
“Năm 1975, tôi cho rằng chế độ mới hoặc là hồng hoặc
là đỏ”, một luật sư trước đây nói, người lúc đó đã từ chối không rời bỏ đất
nước. “Tôi không bao giờ nghĩ rằng nó có thể là xám. Chế độ này đã lấy đi tất
cả mọi niềm vui thích trong trái tim của chúng tôi. Đó là bi kịch của chúng
tôi.”
Danh tiếng của ưu thế về đạo đức, cái mà người cộng
sản đã hưởng được ngay sau khi giải phóng, đã lu mờ khi người dân nhận ra được
rằng “hành vi của họ được quyết định bởi lợi ích cá nhân, đạo đức của họ là đạo
đức giả, và họ không bao giờ làm điều họ nói”, theo một nữ sinh viên, người 18
tuổi vào ngày giải phóng.
Trong khi các cô gái bán dâm của Sài Gòn cũ vẫn còn
bị cải tạo trong một trại thì Thành phố Hồ Chí Minh hiện giờ đã có gái bán dâm
riêng mà vài người trong số đó còn tới từ Hà Nội nữa. Con số của họ tất nhiên
là thích hợp với số khách đã giảm xuống, và hệ thống giá cả hoạt động khác với
trước đây. Thay vì phải trả tiền cho người gác cổng thì bây giờ phải trả tiền
cho các cảnh sát an ninh của khách sạn, “giá cả tăng với tầng lầu mà người ta
muốn làm tình ở trên đó”, một người khách thường xuyên của Sài Gòn nói.
Không thể không nhìn thấy sự khác biệt giữa những
lời tuyên bố công khai của chế độ và hiện thực. Hệ thống chăm sóc sức khỏe tự
nó là không mất tiền cho tất cả, nhưng thuốc chữa bệnh thì không có trong bệnh
viện. “Ai muốn được mổ thì tốt nhất là nên mua trước thuốc gây mê và chỉ khâu
trên thị trường chợ đen”, một bác sĩ nói.
Trong kinh tế, người cộng sản đã phạm lỗi lầm lớn
nhất của họ. Đầu tiên, họ đóng cửa tất cả các cửa hàng tư nhân và truy lùng các
thương gia của khu phố người Hoa Chợ Lớn như là những kẻ đầu cơ. Nhưng rồi khi
họ nhận ra là đất nước đã gần sụp đổ thì họ lại giảm áp lực và còn yêu cầu
người Hoa lại hoạt động tích cực trở lại nữa.
“Xổ số, xổ số là hy vọng cuối cùng của chúng tôi”,
một người bán thuốc lá nói. Thay vì một lần trong một tuần, như vào thời của
Thiệu, ngày nay Sài Gòn có ba cuộc xổ số một ngày. Hàng đoàn người trẻ tuổi đi
bộ qua thành phố vào lúc sáng sớm với hàng cọc vé xổ số, mười đồng một tờ, giá
độc đắc 100.000 đồng. Rồi cả thành phố bất động vào buổi chiều lúc năm giờ, khi
các con số trúng được viết bằng phấn trắng trên các tấm bảng ở chợ và đường
phố.
Người Việt Nam có thu nhập trên đầu người là 102 đô
la Mỹ một năm. Nghèo khổ và không hài lòng (“Ngay cả Bộ Chính trị cũng không
hài lòng”, một quan chức Đảng nói đùa), cung cấp thiếu thốn triền miên và chiến
tranh đã trở thành một phần của cuộc sống hàng ngày của người dân.
“Chúng tôi đã giành lại được nền độc lập của chúng
tôi, chúng tôi đã thống nhất đất nước của chúng tôi, và bây giờ thì giống dân
Việt cũng khai phá đất mới ở phương tây”, một giáo sư từ Sài Gòn nói, người
mang ấn tượng về các thành công quân sự của người cộng sản.
Viện cớ muốn bảo vệ Lào, người Việt đóng 40.000 quân
ở đó; viện cớ giải phóng Campuchia ra khỏi chế độ độc tài của Pol Pot, họ có
một đạo quân chiếm đóng gồm 180.000 người lính ở đó.
Việt Nam 1985: Trại học tập cải tạo Z30D ở tỉnh Thuận Hải. Hình: Philip
Jones Griffiths
Nhờ vào sức chịu đựng riêng mà Việt Nam đã có được
những thành công ở vẻ ngoài của nó, nhưng cũng nhờ vào một khả năng dùng thủ
đoạn đáng ngạc nhiên: dưới áp lực của siêu cường Hoa Kỳ, khi Trung Quốc ngừng
giúp đỡ, Việt Nam đã ngã vào vòng tay của Moscow. Ngày nay, khi người Trung
Quốc và người Nga lại tiến gần tới nhau, người Việt cố gắng tranh thủ sự giúp
đỡ của Mỹ.
Trong lúc đó, họ khéo léo lợi dụng cảm giác có lỗi
với Việt Nam của Mỹ – và tự thể hiện mình rất hào phóng. Nhân dịp kỷ niệm mười
năm, trên 150 nhà báo Mỹ được mời vào trong nước cho một chuyến tham quan được
điều khiển tốt và được giám sát kỹ lưỡng.
Đài truyền hình Mỹ NBC dự định truyền trực tiếp hàng
ngày từ Sài Gòn trong tuần lễ kỷ niệm, qua một vệ tinh mà trạm mặt đất của nó
được chở bằng máy bay tới. Đài cạnh tranh ABC cố gắng không thua kém với một vệ
tinh do Xô viết sản xuất, nhưng vẫn còn chưa hoạt động được, Hoa Sen 2. “Người
Nga phải làm sao cho nó phát tín hiệu”, người Việt nói, “vấn đề là uy tín của
phe xã hội chủ nghĩa.”
Người Việt đã đòi những khoảng tiền đáng ngạc nhiên
từ người Mỹ cho những phóng sự về buổi lễ tung hô nỗi nhục nhã của nước Mỹ: 100
dollar Mỹ mỗi ngày cho một phiên dịch viên, một cuộc phỏng vấn với một giàm đốc
nhà máy có giá 200, với phó của ông ấy là 100.
“Các anh đã quay máy bay ném bom MiG và xe tăng
trong lúc chiến đấu, và các anh cũng biết giá xăng kia mà”, sếp báo chí của
chính phủ Hà Nội nói với một thông tín viên truyền hình Mỹ trước một hóa đơn
trên 6000 dollar mà người này nhận được.
Khi Washington không bước đến đứng cạnh họ với trợ
giúp kinh tế trong khuôn khổ rộng lớn, thì người Sài Gòn ở miền Nam, tự nó thật
ra là giàu có, sẽ còn phải sống khổ cực một thời gian lâu dài nữa. “Thịnh
vượng?” một nhân viên nhà nước cao cấp của Việt Nam nói. “Các thế hệ con cháu
chúng tôi sẽ có nó.”
Những đứa con này được giáo dục nghiêm khắc, đồng
nhất và theo đúng đường lối. Tất cả sách giáo khoa được in trước 1975 đều bị
cấm. Chỉ có 71 người đọc là được phép vào thư viện cũ của Pháp mà giám đốc của
nó là sếp an ninh Von Vung Tao trước đây.
Những đứa con này diễu hành, các em tập bắn súng,
các em chuẩn bị để bảo vệ tổ quốc của các em. Các em lớn lên mà không khao khát
một thế giới khác, không có khả năng so sánh, hãnh diện là thuộc một dòng giống
đã chiến thắng ba quốc gia lớn – người Trung Quốc, người Pháp và người Mỹ.
Chẳng bao lâu nữa giới trẻ lớn lên như thế từ miền
Nam, những người bây giờ gia nhập quân đội để được người Bắc huấn luyện, sẽ
cứng rắn và dẽo dai như những người đồng lứa tuổi với họ từ Hà Nội. Một vài
thập niên nữa, và Việt Nam thật sự là sẽ thống nhất – bởi một giống người duy
nhất.
Cho tới chừng đó, cả một thế hệ của những bóng ma sẽ
biến mất, những bóng ma mà giờ đây đang sống trên khắp miền Nam và không nhìn
thấy điều gì tốt đẹp trong chế độ mới.
“Có thật sự là không có gì tốt đẹp không? Một người
bạn lâu năm trả lời cho câu hỏi này: “Có, có chứ, người cộng sản đã làm cho tôi
sáng mắt ra. Trước 1975 tôi cần dùng một cái kính mắt, bây giờ thì tôi vẫn nhìn
thấy mà không cần có nó.”
Tiziano
Terzani
Phan Ba dịch từ Der Spiegel số 18/1985: http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-13514174.html
Đọc những bài khác ở trang Chiến
tranh Việt Nam
No comments:
Post a Comment