Thứ Sáu, ngày 28 tháng 9
năm 2012
“Nơi
nào người ta đốt sách thì họ sẽ kết thúc bằng việc đốt sinh mạng con người”.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thủy
Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lý Tư đã đề nghị dẹp bỏ tự do ngôn luận để
thống nhất chính kiến và tư tưởng. Lý Tư chỉ trích giới trí thức dùng ‘sự dối
trá’ qua sách vở để tạo phản trong quần chúng.
Chủ trương Đốt sách, Chôn nho (Phần thư,
Khanh nho) của Tần Thủy Hoàng được thực hiện từ năm 213 trước Công nguyên. Qua
đó, tất cả những kinh điển từ thời Chư tử Bách gia (trừ sách Pháp gia, trường
phái của Lý Tư) đều bị đốt sạch. Lý Tư còn đề nghị đốt tất cả thi, thư, sách
vở, trừ những quyển được viết vào thời nhà Tần. Sách trong lĩnh vực triết lý và
thi ca, trừ những sách của Bác sĩ (cố vấn nhà vua) đều bị đốt. Những nho sinh
dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành hình. Những ai dựa vào chế độ
cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chém ngang lưng.
Lý Tư tấu: “Thần xin rằng sử sách không phải do
Tần ghi chép đều bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ thì
trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả
đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu
đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ
bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm
mặt và bắt đi xây dựng trường thành”.
Năm 212 TCN, Tần Thuỷ Hoàng phát hiện ở Hàm Dương có
một số nho sinh đã từng bình phẩm về mình liền hạ lệnh bắt để thẩm vấn. Các nho
sinh không chịu nổi tra khảo, lại khai ra thêm một loạt người khác. Tần Thuỷ
Hoàng hạ lệnh đem tất cả trên 460 nho sinh đó chôn sống ngoài thành Hàm Dương. Đốt
sách, chôn Nho là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần
Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn còn ghi nhớ. Không riêng
gì người Hán mà cả nhân loại lên án.
Trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lý Tư đều
biết rất rõ, lệnh đốt sách không thể nào xóa sạch những tư tưởng trong đầu óc
dân chúng, những cuốn sách ‘khó đốt’ nhất là nằm trong tinh thần con người. Như
vậy, việc đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chứ không tạo được tác dụng
triệt để trong việc xóa sạch vết tích văn hóa-chính trị như mong muốn.
***
Việt Nam vốn tự hào là quốc gia có hơn 4000 năm văn
hiến, nhưng sách vở của người xưa để lại thì rất ít. Nguyên nhân chính là vì
quân nhà Minh bên Tàu đã ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những ngày đầu đô
hộ nước ta để dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Hoa từ năm
1953 đến 1966 cũng đã gây nhiều ảnh hưởng đến miền Bắc. Do đó, xét về mặt lịch
sử, Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời kỳ sách vở bị tiêu hủy cho phù hợp với
những thay đổi qua các giai đoạn chính trị.
Trên thực tế, tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản
Hà Nội, việc kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng
đã được thực hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại sách báo đã in ra từ trước
1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đã bị đốt. Thế cho nên, việc đốt sách tại miền
Nam năm 1975 chỉ là rập khuôn của chính sách cũ năm 1954.
Hồi ký của Một người Hà Nội ghi lại sự kiện
đốt sách năm 1954 khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc: “Chơi
vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học
năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm sau sẽ sáp nhập
thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không phải để học, mà
là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào
chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn
‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý,
mang ‘tập trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy
ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của
bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản động!’.
Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”.
***
Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày
30/4/1975, việc đốt sách được thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi
trụy-Phản động. Tự bản thân khẩu hiệu trong chiến dịch đã nêu rõ 2 mục
đích: (1) về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ
và (2) về văn hóa, xóa bỏ hình thức được coi là ‘đồi trụy theo hình thức tư
bản’.
Một trong những việc làm cấp thiết của chính quyền
mới khi miền Nam sụp đổ là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những
tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí,
Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong và cấm lưu
hành.
Xuống đường Bài trừ Văn hóa Đồi trụy & Phản động
trong thời điêu linh
Đội ngũ những người cầm bút miền Nam phải nói là rất
đông và bao gồm nhiều lãnh vực. Về triết học phương Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần
Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan… Triết Đông có Nguyễn
Đăng Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim
Định, Nhất Hạnh…
Phần biên khảo có Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê Ngọc
Trụ, Lê Văn Đức, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập, Phạm Thế Ngũ, Vương
Hồng Sển, Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng
Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc
Ngữ, Nguyễn Văn Sâm...
Về thi ca có Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm
Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc
Ly, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê.... Phê bình
văn học có Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên
Thao, Huỳnh Phan Anh...
Đông đảo nhất là văn chương với Võ Phiến, Mai Thảo,
Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Bình Nguyên
Lộc, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn,
Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn
Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình Toàn, Chu Tử, Viên Linh, Duyên
Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung Tích Biền, Duy Lam, Thế
Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp,
Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng
Giác, Ngô Thế Vinh...
Toàn bộ sách ấn hành tại miền Nam của những tác giả
nêu trên (còn một số người nữa mà người viết bài này không thể nhớ hết) đều bị
‘đánh đồng’ là tàn dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản động và đồi trụy. Các cấp
chính quyền từ phường, xã, quận, huyện, thành phố ra chỉ thị tập trung tất cả
các loại sách vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến sách giáo khoa để hỏa
thiêu.
Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta
ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong
chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài Gòn. Sách báo trên
kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu
không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy,
coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất
nhiên, những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt. Trong hồi ký Viết
trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến trong vụ đốt
sách năm 1975:
“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường
Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu
gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi
một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có
kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là
nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình!
Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.
Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học
nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì
lòng người ngại núi e sông”. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long như Loan
mắt nhung, Kinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của tác
giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.
Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng
Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của
miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố,
Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắt, Vẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con
Thúy. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm
qua các nhà tù và trại tập trung.
Vượt biển sang Pháp, Duyên
Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó có Un
Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo
chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia
Piere Chaunu, giáo sư Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh
quang của quốc gia’.
Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù
không, nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi lòng,
có tựa đề là Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những
truyện ngắn, truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới dàn hoa
thiên lý hoặc du côn du đãng như Dzũng Dakao… Tất cả lần lượt được
hóa kiếp bằng ngọn lửa.
Trong cuốn Những tên
biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất
bản sau năm 1975 có đoạn viết:
“… Một số người như Duyên Anh,
Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện.
Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có
nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách
mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của
đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.
Dù xét dưới tác động nào, hoạt
động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt
động có ý thức. Ý thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự
xã hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản...
Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa
một phạm vi hoạt động, một phương tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi
bút của mình phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều
người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường
thành ngăn sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi mình như một ‘viên kim cương, răng Cộng
Sản không sao nhá được’...”
Trong vụ án được mệnh danh là Nhũng tên Biệt kích
Cầm bút năm 1986, một số nhà văn ra tòa tại Sài Gòn với tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn
dựng một vụ án điển hình để đe dọa các nhà văn miền Nam nhưng bất thành vì áp
lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ chung thân đến 20 năm), Dương Hùng Cường (18 năm), Lý Thụy Ý (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (10 năm) và Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc Tự (8 năm).
Tính ra Hoàng Hải Thủy (còn có bút danh Công tử
Hà Đông, Con trai bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó tìm
đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng
nhiều kỳ trên các báo, truyện phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ tuy đã
già nhưng vẫn còn viết rất hăng ở Rừng Phong (Virginia) trên blog http://hoanghaithuy.wordpress.com/.
Những nhà văn như Hoàng Hải
Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh
việc viết văn. Trong lãnh vực báo chí, Sài Gòn vẫn được coi là
trung tâm của báo chí với những nhật báo lớn đã xuất hiện từ lâu như tờ Thần
Chung (sau đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài Gòn Mới
của bà Bút Trà… Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến
là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần
chúng. Hoạt động báo chí ở Saigòn càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến
tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.
Nhật báo Tiếng Chuông
Một đặc điểm của văn học miền Nam là việc hình thành
các nhóm văn học. Nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm
Xuân Hồng, Mặc Đỗ. Quan Điểm (cũng là tên nhà xuất bản do Mặc Đỗ điều
hành) được người đương thời gọi là nhóm ‘trí thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm
của họ, trong những ngày đầu chia cắt đất nước sau hiệp định Genève, thường có
những nhân vật mang nỗi hoang mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản
trước ngã ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?
Theo Trần Thanh Hiệp, nhóm Sáng Tạo là một
nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn
người: Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Di cư
vào Sài Gòn, họ tiếp tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ (do
Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền
thân của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm
giã từ Hà Nội, rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.
Trên tạp chí Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi
kể trên người ta còn thấy Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên,
Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn. Sáng Tạo số đầu ra tháng 10/1956 và
tạm ngưng ở số 27 (tháng 12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng 3/62).
Tạp chí Sáng Tạo (1958)
Nhóm Bách Khoa ra đời tháng 1/1957 và sống
đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ thuật có
tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành
trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị
tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.
Bách Khoa quy tụ được
nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng
cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn
Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc.... Theo
Võ Phiến, trong thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa
bán được 4500 đến 5000 bản.
Tạp chí Bách Khoa (1962)
Đắt khách nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đình
Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông
nom trong 10 năm đầu, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng quy tụ
được nhiều nhà văn ở nhiều lứa tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương Nghiễm
Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc... Văn
đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần
Phong Giao cũng là một dịch giả nổi tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở
Paris, dịch và viết về những phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.
Tạp chí Văn
Tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời
ngày 17/6/1958, được 11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương
tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.
Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế
do Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và
sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn
Văn Trung, người sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên và trí thức.
Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn
chương, cho biết: “Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo,
qua các nhà xuất bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch
văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp chí
trên đó họ góp mặt”.
Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần
báo Đời Mới, Nhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon
Mới (Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ
Hà, Trang Thế Hy...). Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ
Mới, Bách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ
Hạnh, Bùi Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên
các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận
(Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ
Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm
Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã
Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay
quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo
Trường...
Nhật báo Tiền Tuyến
Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn
Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng
Thiên chúa giáo La mã có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung,
Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt ra
ngoài vòng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương,
Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trên Tin Văn hay hiện
diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch.
Những tờ như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ
các nhà văn không có lập trường chính trị rõ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ
điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại,
sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng. Những
tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê
Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang...
Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới
cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đình
vào Nam hoặc sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp
đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành
lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long
Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàigòn như Vạn Hạnh, Minh Đức...”
Những nhà văn trẻ đã trưởng thành về tuổi đời và
nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xã hội, chiến
tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính
trị ảnh hưởng trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân dịch... Do đó, họ có
lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối nhìn của
những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo
một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về
thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam
tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của
Gheorghiu.
Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả
bao gồm nhiều thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình
Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam... đều sống bằng
ngòi bút một cách dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp, thậm chí nhiều
nhà văn có nhà xuất bản riêng.
Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật
đã viết được 100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn
Trung, ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công
trình sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học miền Lục tỉnh
Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo... cũng đều
có những số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ
nghịch với chất lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.
Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’
thích đọc Duyên Anh, lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng,
Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời sống người phụ
nữ tân tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ,
Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên,
Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả đòi hỏi người đọc một trình
độ trí thức cao. Quần chúng bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long... Học sinh
trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường
Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.
Nhà văn Chu Tử qua Vũ Uyên
Giang
Bộ sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới của
Nguyễn Q. Thắng xuất bản sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn gia’ của VNCH, mỗi
người được tác giả gắn cho một nhãn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Trung là ‘nhà
văn nhập cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’, Nguyễn Ngọc Lan ‘nhà văn
Công giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh (?) ‘nhà văn cần cù’, Thế Uyên
‘nhà văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng đế’, ‘nhà độc tài' văn học’ (!?), Hồ
Trường An ‘dược sĩ (?), nhà văn’…
Những nhà văn nữ như Nguyễn Thị Thụy Vũ được khoác
cho cái nhãn ‘nhà văn nữ giầu tình dục’, Túy Hồng ‘nữ văn sĩ giầu tính nhục
cảm’, Nguyễn Thị Hoàng ‘nhà văn trẻ của tình lụy’, Thu Vân (?) ‘nhà văn dùng
tính dục để giải quyết vấn đề’…
Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ dưới mắt họa sĩ Chóe
Nhà văn Túy Hồng dưới mắt họa sĩ Chóe
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng dưới mắt họa sĩ Chóe
Một điều không ai có thể phủ nhận là miền Nam trước
khi có chiến dịch đốt sách năm 1975 rất phong phú về sách báo, từ sáng tác đến
dịch thuật, từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc chắn là trong số các tác
phẩm đó ‘có vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc đủ sáng suốt để lọc ra những
gì với họ là tinh túy để giữ lại, hoặc dấu nếu cần.
Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954, họ rất ngạc
nhiên khi thấy những người đạp xe xích lô đến buổi trưa, tìm chỗ mát nghỉ ngơi.
Họ ngồi gác chân đọc nhật trình. Người bình dân miền Nam có truyền thống đọc
sách báo mà ở ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 miền
Nam đã là vùng đất của tiểu thuyết và báo chí trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo
chí phần lớn chỉ dành cho người có học.
Miền Nam vào những thập niên 60-70 lại có hiện tượng
giao thoa giữa hai nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập ồ ạt của các loại sách
Livre de poche của Pháp và các loại sách soft cover của Mỹ. Giá
sách nói chung tương đối rẻ vì mục đích chính là phổ biến văn hóa, thương mại
chỉ là phụ.
Người đọc có thể tìm loại sách IC (Information &
Culture) dưới hình thức sách bỏ túi (Livre de Poche) của Pháp bày bán tại các
nhà sách Sài Gòn trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có chút vốn liếng về tiếng
Pháp, người ta có thể tìm đọc những tác phẩm cổ điển của Platon, Homère hoặc
các tác phẩm đương đại của Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Saint Exupéry,
Francoise Sagan…
Quân đội Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam, nhưng văn hoá
Mỹ có vai trò áp đảo hay không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, “Thời chiến
tranh lạnh, với thế lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm trong vùng ảnh hưởng
Mỹ, và như vậy là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá Mỹ, theo gót đoàn
quân viễn chinh, cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng gì sâu đậm. Ở lối sống, ở
những giai tầng thấp thì có thể gọi là có ảnh hưởng một cách xô bồ, nhưng ở
thượng tầng thì chưa”.
Hoa Kỳ thành lập cơ quan thông tin-văn hóa JUSPAO
(Joint United States Public Affairs Office) và tạp chí Thế giới Tự do
được phát hành miễn phí cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh, được in ấn
bằng phương tiện tối tân nên rất hấp dẫn người đọc.
Cũng có một nguồn cung cấp sách tiếng Anh hoàn toàn
miễn phí nhưng rất ít người biết để đem về kệ sách riêng của mình. Đó là sách
của Asia Foundation (Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu) một tổ chức phi mậu dịch,
tặng không cho người đọc là quân nhân, công chức với số lượng hạn chế mỗi lần 5
quyển cách nhau 3 tháng.
Tôi là ‘khách hàng’ thường xuyên của Asia
Foundation. Sách của Asia Foundation là loại sách viện trợ thuộc đủ mọi lĩnh
vực, trên sách có đóng dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin đừng bán”.
Nếu gặp may, bạn có thể gặp những sách thuộc loại ‘quý, hiếm’.
Tôi còn giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces
(dày khoảng 3000 trang in lại những kiệt tác văn chương của thế giới qua các
thời kỳ như Iliad của Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes,
Hamlet của William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise
Pascal, Faust của Von Goethe, The Death of Iván Ilyich của Leo
Tolstoy, Theseus (Thésée) của Andre Gide, Remembrance of Things
Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…
Sách do Asia Foundation tặng
Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã
được in lại, và càng ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền
văn học đã mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi
tiếng ở miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau 1975, Từ điển văn
học bộ mới cũng được phép in một số mục từ về Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa,
Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng...
Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đã biến mất
sau đại họa 1975 và chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại
dưới hình thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề
là những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc bằng sách báo với quá khứ.
Kết thúc bài viết này, tác giả xin mượn ý thơ của Vũ
Đình Liên than thở cho thân phận ông đồ trước cảnh tàn lụi của nền nho học:
Năm nay đào lại nở
Không thấy sách báo xưa
Ngọn lửa nào năm cũ
Lạc về đâu bây giờ?
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 6 – Thời điêu
linh)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân
đội)
5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và
lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng
sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
----------------------------------------
Giới Thiệu TỦ SÁCH ĐIỆN TỬ TALAWAS
No comments:
Post a Comment