Tiziano Terzani
Der Spiegel số 18/1985
Tháng Tư 25, 2014
Lời
người dịch: Tiziano Terzani (1938 – 2004) là một nhà báo, nhà
văn người Ý. Ông đã tường thuật 30 năm trời từ châu Á cho tuần báo Der
Spiegel, là một trong những phóng viên nổi tiếng ở Đông và Đông Nam Á. Tiziano
Terzani là một người có cảm tình với Việt Cộng. Ông đã từng vào rừng sống chung
với Việt Cộng. Tháng 4 năm 1975, ông là một trong số ít nhà báo đã ở lại Sài Gòn,
nhân chứng của thời điểm lịch sử đó. “Tôi đã rơi nước mắt”, Terzani nhớ lại.
Bài báo này do ông viết nhân dịp kỷ niệm mười năm kết thúc cuộc Chiến tranh
Việt Nam.
----------
Tiziano Terzani (phải) đi cùng với xe tăng quân đội Bắc Việt trên đường
Tự Do của Sài Gòn vào ngày 30 tháng Tư năm 1975. Hình: Tư liệu Terzani
Người dân trông mạnh khỏe và vui tươi, họ mặc quần
áo chỉnh tề – nhưng chỉ trên các tấm áp phích. Dưới hàng trăm bức hình tưởng
tượng khổng lồ nhiều màu đó của công nhân, quân nhân và trẻ em, những người
kiên quyết hay mỉm cười nhìn lên bầu trời, là từng ấy con người thật, đói ăn,
rách rưới, ốm yếu, dơ dáy nhìn xuống mặt đất. Họ tìm một mẩu thuốc lá thừa, một
mảnh giấy hay một cái gì đó ăn được.
Sài Gòn kỷ niệm mười năm chiến thắng của tháng Tư
1975: công sở được quét vôi mới, người bất đồng chính kiến bị bắt giam, ăn mày
trên các con đường chính của trung tâm bị đày vào một trại ở ngoại ô thành phố,
để họ đừng làm dơ bẩn hình ảnh chiến đấu của Sài Gòn trước đây, Thành phố Hồ
Chí Minh ngày nay. Nhưng không gì có thể che đậy được sự chán ngán trên các
gương mặt của đại đa số 3,5 triệu dân cư của nó.
“Đó là chiến thắng của họ, không phải của chúng
tôi”, một người Sài Gòn thì thào nói với con người xa lạ. “Đối với chúng tôi
thì lễ kỷ niệm này chỉ có nghĩa là bắt bớ và cúp điện. Họ cần điện để chiếu
sáng chân dung của bác Hồ.”
“Họ” và “chúng tôi” – mười năm sau cuộc chiến, sự
chia rẽ giữa người chiến thắng và người thua trận cũng vẫn còn không thể vượt
qua được.
Chân dung các anh hùng của Chủ nghĩa Xã hội trong buổi kỷ niệm mười năm
ngày chiến thắng. Hình: Philip Jones Griffiths
Trước đây mười năm, khi những chiếc xe tăng đầy bụi
bặm với lá cờ Việt Cộng chạy ngang qua tòa Đại sứ quán Mỹ tiến tới dinh thự của
tổng tống Thiệu bại trận, khi những người lính du kích đầu tiên, gầy gò, rụt
rè, trẻ tuổi, kéo xuống đường Tự Do, con số ít ỏi của những người ngoại quốc có
mặt trong lúc đó đã khóc vì mừng rỡ: một cuộc chiến tranh tàn bạo đã chấm dứt,
Việt Nam dường như đã giành lại được độc lập, một dân tộc tái thống nhất bây
giờ sẽ có hòa bình và công lý – thời đó chúng tôi tin là như vậy.
Hòa bình đã không trở lại với Đông Dương. Hàng trăm
người Việt trẻ tuổi đã hy sinh trên các chiến trường Campuchia. Không có công
lý, nếu như công lý khác với việc lật đổ một xã hội và thay thế một chế độ độc
tài bằng một chế độ độc tài khác. Người Sài Gòn, rõ ràng là như vậy, ngày nay
sống tồi tệ hơn, phải chịu đựng tình trạng thiếu năng lực và tham nhũng nhiều
hơn, sợ cảnh sát nhiều hơn là trước kia.
“Cách mạng đã không thực hiện bất cứ lời hứa nào của
họ”, một người bạn nói. “Ngay cả người chết cũng bị lừa.” Trên nghĩa trang cũ ở
Biên Hòa, nơi nhiều người lính Việt Nam hy sinh trong cuộc chiến chống cộng sản
được chôn cất ở đó, phần lớn các ngôi mộ đã bị xe ủi đất san phẳng – mặc dù chế
độ mới đã tạo một nghĩa trang riêng cho những người anh hùng đã hy sinh cho
cuộc cách mạng.
Đối với người sống, lời hứa hòa giải dân tộc còn
được thực hiện ít hơn như thế nữa.
Trong tháng Năm 1975, một sĩ quan từ quân đội của
Thiệu được lệnh đi “học tập cải tạo”. Ông mang theo mùng, bàn chải đánh răng và
gạo cho 30 ngày đi trình diện; và ông cũng như tôi tin rằng sau 30 ngày ông
thật sự sẽ trở về.
“Nào phải 30 ngày! Thành 3289 ngày”, bây giờ ông
nói; ông còn có may mắn. Nhiều người lính, sĩ quan và nhân viên trước kia của
chính quyền bại trận đã chết trong các trại cải tạo. Nhiều người vẫn còn ở
trong những trại trong rừng đó, những trại mà các quan chức cộng sản ngày nay
trong những khoảnh khắc bất cẩn đã gọi chúng là “trại tập trung”.
Một lớp học tập cải tạo tại Tây Ninh, 1976. Hình: Marc Riboud
Còn bao nhiêu người Việt Nam bị giam cầm ở đó? Chính
phủ đưa ra con số 7000. Có người ước đoán tới 100.000. Trong năm 1975, chế độ
mới hứa hẹn cho mỗi một người Việt Nam một nhiệm vụ trong cuộc tái xây dựng đất
nước đã bị tàn phá này. Ngày nay, hàng ngàn người trở về từ những trại cải tạo
đó đều không có một cơ hội nào.
Cái tội lỗi thuộc về một “chế độ bù nhìn” là không
thể rửa sạch được. Còn ngược lại, nó giống như một căn bệnh được di truyền từ
cha sang con: không có công việc làm cho những “tên bù nhìn”, không có chỗ cho
con của họ trong các trường trung học hay đại học.
Trong khi nhân viên cộng sản, toàn bộ đều từ miền
Bắc, dọn vào ở trong các khu biệt thự và nhà riêng của giới thượng lưu Sài Gòn
cũ thì xã hội Việt Nam bị quẳng ra đường phố và lang thang vất vưởng khốn khổ ở
đó như một bộ tộc đi lạc, bị nguyền rủa phải tuyệt chủng.
Sau chiến thắng của họ ở Campuchia, tên cộng sản
thời đồ đá Pol Pot và Khmer Đỏ đã phân người dân của họ ra thành hai loại:
những người dân đã sống dưới sự thống trị của cộng sản trước 1975, vì vậy mà có
thể tin tưởng được; và những người kia, những người đã không được hưởng lợi thế
này, tức là phải chiến đấu chống lại hay còn phải tiệt trừ hoàn toàn nữa.
“Những gì diễn ra ở đây trong Việt Nam cũng giống như Pol Pot quay chậm”, một
người bạn ở Sài Gòn nói.
“Chúng tôi đã chết rồi, nhưng chúng tôi vẫn còn có
thể bước đi. Tôi có cảm giác mình giống như một bóng ma từ một thời gian khác”,
một phi công trước đây của không quân nói, người có hơn tám năm trại cải tạo ở
phía sau mình và bây giờ có nhà của mình ở trên một băng ghế do Lions Clubs tặng
ở dưới tượng đài kỷ niệm Trần Hưng Đạo.
Nghĩa trang máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhứt, một trong những phi trường
bận rộn nhất của thế giới trước kia. Hình: Philip Jones Griffiths
Sài Gòn vui sống ngày xưa đầy những bóng ma từ quá
khứ như thế. Có thể nhìn thấy họ ở khắp nơi: tóc dài, quần áo dơ bẩn, nhiều
người có vết thương hay ung nhọt không được băng bó, có người đi tha thẩn lạc
lỏng, những người khác làm các công việc khốn cùng: thiếu niên đi lang thang
qua thành phố với một cái kẹp và bao tải, để nhặt giấy vụn và bao nilon. Người
trung niên với vẻ mặt trí thức dùng ống tiêm bơm mực mới vào những cây bút bi
cũ. Những ngưởi khác ngồi cạnh một cái nón lính đổ đầy nước và vá xe đạp.
Ở Sài Gòn có 40.000 xe xích lô. Phần lớn người lái
là lính và sĩ quan cũ. Họ ngủ trên những chiếc chiếu ở trước tòa nhà quốc hội
cũ và ở cạnh những đài tưởng niệm của thành phố. Họ chui vào trong công sự có
từ thời chiến tranh để tránh mưa. Họ thường xuất thân từ những gia đình xưa,
khá giả, ở Sài Gòn và bây giờ thì thất nghiệp và vô gia cư, trở về từ “vùng
kinh tế mới”, nơi mà họ bị ép buộc phải đi tới đó.
Năm 1976, người ta có thể tới thăm một vùng kinh tế
mới lớn ở phía bắc của thủ đô, nơi hàng ngàn gia đình Sài Gòn cần phải biến
miền đất hoang vu thành đồng ruộng dưới ngọn cờ đỏ đang bay phấp phới. Không có
nước lẫn cây cỏ. Sau mười năm cố gắng, cuộc thử nghiệm đó được tuyên bố là
vô vọng, người dân chạy trốn trở về thành phố. Từ đó, không còn ai nói về vùng
kinh tế mới nữa. Chế độ của miền Bắc không thành công trong việc lấy được thiện
cảm của người dân miền Nam. Vì thế mà mười năm sau ngày giải phóng, hai Việt
Nam vẫn còn sống thù địch và nghi ngờ bên cạnh nhau.
Mười năm này cũng không mang lại sự hòa thuận cho
những gia đình bị cuộc nội chiến chia cắt, tái đoàn tụ qua giải phóng. “Người
anh em cộng sản của tôi đã tố cáo tôi là tư sản để cướp tài sản của tôi”, một
người quen thuật lại, người trước kia đã từng sở hữu một quán ăn. “Khi tôi trở
về sau ba năm ở trong tù, tường nhà tôi đầy lỗ vì hắn nghĩ rằng chúng tôi giàu
lắm và đã cất dấu vàng, thứ mà hắn muốn tìm cho ra.”
Sài Gòn, Việt Nam 1985: chờ mở cửa. Hình: Philip Jones Griffiths
Ở Sài Gòn, bất cứ chức vụ quan trọng nào trong hành
chánh đều nằm trong tay của người Việt từ miền Bắc – bắt đầu từ người cảnh sát
đứng ở ngã tư và nhân viên bưu điện, người giám sát việc bán tem thư. Đứng
trước chính sách nhân sự này, người ta tự hỏi liệu chế độ cộng sản của miền Bắc
có thật sự muốn hòa giải dân tộc hay không, điều mà họ đã hứa hẹn trước đây
mười năm, hay là, thật lâu trước khi chiếm Sài Gòn, họ đã quyết định đánh giá
toàn bộ người dân miền Nam là không thể tin tưởng được.
Người ta cũng tự hỏi, liệu Hà Nội có ý thật sự
nghiêm chỉnh với việc “cải tạo” hay không, hay đó là một mưu kế để đánh đổ bộ
máy quân sự và dân sự của chế độ trước đây chỉ với một cú đánh. Cuối cùng,
người ta tự hỏi, rằng kế hoạch của những vùng kinh tế mới có thật sự xuất phát
từ ý định tạo công việc làm mới cho dân cư thất nghiệp của thành phố hay không;
hay đó là một biện pháp rẻ tiền thì nhiều hơn, để xua đuổi hàng ngàn gia đình
Sài Gòn ra khỏi nhà ở của họ và trao chúng về cho các gia đình từ miền Bắc.
Thật sự là vào năm 1975, ở Nam Việt Nam có hàng ngàn
kỹ sư, người tốt nghiệp đại học và người đã qua đào tạo sẵn sàng làm việc cho
chế độ mới, rằng chế độ mới này đã khước từ sự cộng tác của họ: một sự lãng phí
lòng nhiệt tình, khả năng và nhân tài hết sức to lớn.
Năm 1975, ở Sài Gòn có trên 2000 bác sĩ. 800 người
đã ra đi với người Mỹ, phân nửa số người lúc đầu còn ở lại đã rời bỏ đất nước
trong vòng mười năm vừa qua.
“Tôi không sợ nghèo khổ”, một người nói, người đã
chịu đựng được và không than phiền về việc từ năm 1975 không ai trong gia đình
ông đã có thể mua được một cái áo mới. “Nhưng thật khó mà chịu đựng được cái
cảm giác mình là người thừa.” Ngày nay, ông kiếm tiền bằng cách dạy tiếng Anh
cho người Việt đang chuẩn bị chạy trốn.
Trên một triệu người Việt đã rời bỏ đất nước của họ
từ 1975, nhiều người đã liều tính mạng của họ trên biển như là “boat people”.
Cả cho tới ngày nay, hàng tháng trung bình có khoảng 2000 người Việt cố gắng bỏ
trốn.
(Còn tiếp)
Tiziano
Terzani
Phan Ba dịch từ Der Spiegel số 18/1985: http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-13514174.html
Đọc những bài khác ở trang Chiến
tranh Việt Nam
No comments:
Post a Comment