TS. Alan
Phan
June 27, 2013
June 27, 2013
Một quốc gia hủy diệt thiên nhiên sẽ tự hủy diệt. Núi rừng là lá phổi của
đất nước, thanh lọc không khí và tạo năng lượng mới cho con người .
(Franklin Roosevelt)
Năm 1955, tôi vừa 10 tuổi, cha tôi gởi cả gia đình
lên Đàlạt. Ông nói môi trường sống ở Saigon quá xô bồ, ô nhiễm và thiếu văn hoá
(nếu ông sống ở Saigon ngày nay thì chắc ông sẽ gởi tôi lên… mặt trăng ở với
chị Hằng… hay một chị chân ngắn nào đó). Mẹ tôi mua một căn nhà ở 60 dốc Duy
Tân, buôn áo quần trẻ em, và 4 anh chị em bắt đầu khám phá một thiên đường mới
thật nhiều cây xanh hoa lạ.
Đàlạt
1955
Lúc đó, Đàlạt lạnh thấu buốt tận lòng. Ngày nào,
chúng tôi cũng co ro trong chăn, mơ thấy các bí hiểm về rừng sâu qua những
huyền thoại, cười giỡn khúc khích khi doạ hù ma quỷ, và miên man với một thiên
nhiên dù hoang dã nhưng rất trong lành.
Hồi đó người Thượng (giờ gọi là người dân tộc) dù
sống trong thôn bản của họ vẫn lui tới giao lưu với người Kinh khắp nơi, nhất
là quanh khu chợ Hoà Bình. Họ hiền lành trong những sắc phục cổ truyền nhiều
mầu sắc, bập bẹ tiếng Việt và tạo một cảnh quan sống động hài hoà. Trong ký ức
của tôi, ấn tượng nhất là những người phụ nữ, ở trần khoe bộ ngực thường lớn và
cứng cáp như các cô gái Âu Mỹ trong phim rạp hay sách vở. Với tiềm thức “khát
sữa” của tôi, đây là hình ảnh tuyệt vời của người tình trong mộng. Tôi mơ làm
một chàng trai Thượng vạm vỡ, có vài bạn gái, uống rượu cần mỗi đêm và cùng
nhau nhẩy nhót cạnh bờ suối trăng.
Một lần, khi đi chơi thật sâu vào rừng, tôi và mấy
đứa bạn đến một giong suối có mấy cô gái Thượng đang tắm. Ngược với thái độ của
mấy cô gái Kinh là thét thất thanh, các cô Thượng vẫy chào chúng tôi như những
người bạn lâu ngày vừa gặp. Lúc lên lau người, một cô thấy tôi trân trối nhìn
vào bộ ngực cao bồng của mình, lấy tay tôi đặt nhẹ lên ngực mình, cười vang,
rồi cùng bạn biến mất sau những tàng cây um tùm. Tôi nghĩ mình vừa được ban
phước Thánh.
Cha tôi vẫn ở Saigon làm ăn và lái xe thăm gia đình
mỗi tuần. Một chuyến đi thăm, ông buồn ngủ, xe bị lật xuống đèo Prenn, ông
không lái xe nữa và dọn cả gia đình vế lại Saigon. Tôi rưng rưng nước mắt giã
từ rặng núi Lang Biang, thác Cam Ly, hồ Than Thở và những ngọn đồi quanh hồ
Xuân Hương. Cả những căn villa nhiều hoa hồng, tiệm ăn Eau Vive, nhà Thủy Tạ,
ngôi thánh đường trên dốc cao và những đứa bạn đã cùng nhau thám hiểm các khu
rừng lân cận theo đúng tinh thần của Robinson Crusoe. Tôi cũng nhớ tha thiết
những người Thượng hiền lành và những người tình trong mộng.
Đàlạt 1969
Tôi gặp lại Đàlạt lần thứ hai khi ở Mỹ về và lên dạy
học tại Trường Võ Bị. Những người Thượng vẫn còn lui tới và thành phố vẫn dầy
đặc sương mù mỗi đêm. Những con đường dốc vẫn đầy hoa bất tử (immortel) trước
những căn villa buồn lặng và đôi má các thiếu nữ vẩn ửng hồng trong ánh nắng
đầu ngày. Tôi đã trưởng thành và tìm một “mình” mới lạ trong một cuộc tình cháy
bỏng và ngắn ngủi nhưng cũng đầy thơ mộng. Chiến tranh bao quanh với tiếng đại
bác vọng về mỗi đêm nhưng Đàlạt lại may mắn không bị tổn hại, và trở thành một
ốc đảo thanh bình cho những tấm lòng thương yêu thật bình dị.
Trong dâu biển của đời mình, Dalat có lẽ là điểm
sáng chói loà của hạnh phúc. Cái nhỏ bé, văn minh và thẹn thùng của Đàlạt là
cái quyến rũ đậm đà thầm lặng của thiên nhiên và con người khi hài hòa. Trong
khung hình của ký ức, những người Thượng chất phác trong lành tạo một “bối
cảnh” (backdrop = danh từ của phim ảnh) của những câu chuyện tử tế và có hậu.
Đàlạt
2013
Tôi quay lại Đàlạt tuần rồi sau 2 năm vắng bóng. Cái
thất vọng vào chuyến đi chơi 2011 có lẽ đã là một dự đoán cho cái tuyệt vọng
ngày hôm nay. Từ một đứa con gái dậy thì, Dalat đã già nua phong trần như một
vũ nữ xế chiều, không còn nhân cách.
Backdrop đã phai nhạt: những người Thượng đã biến
mất hay họ không còn biết đến những sắc phục cổ truyền. Những vườn hoa trước
các villa và những chiếc áo dài không còn tô điểm cho các con đường thành phố;
bây giờ mọc đầy những căn nhà hộp quẹt với mầu sắc lộn xộn và bảng hiệu tạp
nham. Xa xa, những ngọn núi đã bắt đầu trọc lốc vì nạn phá rừng làm rẫy. Thay
vì mùi hoa mimosa hay dạ lý những đêm mùa đông, Đàlạt hôi thối đến tận cùng với
mùi phân bón và rác rưởi quanh tỉnh. Với số lượng cây cỏ bị chặt đốn, Đàlạt
nóng gần bằng Saigon, và dĩ nhiên, với sự du nhập của văn hoá xe gắn máy, khói
bụi và tiếng ồn cũng bắt đầu mọc rễ.
Tôi đưa vài người bạn ngoại quốc đến nhà Thủy Tạ để
giới thiệu “môi trường văn hoá cà phê” mà Vũ Trung Nguyên hay rao giảng. Vừa
được 5 phút, chúng tôi phải bỏ chạy vì mùi xú uế nồng nặc từ tảo đỏ và xác cá
chết của hồ Xuân Hương. Tôi vẫn không bỏ cuộc: tôi dẫn các bạn đó đến hồ Tuyền
Lâm. Các dự án khu nghĩ dưỡng bao quanh khu hồ, dang dở bỏ ngang khi thị trường
bất động sản đi vào khủng hoảng. Cũng may cho hồ, nếu GDP tiếp tục tăng trưởng
trên 10% mấy năm qua, có lẽ hồ Tuyền Lâm cũng đã cùng số phận với hồ Xuân
Hương, thác Cam Ly và bao địa danh khác của thời tôi còn trẻ.
Đàlạt
đã chết lâm sàng. Không biết ngày nào sẽ đem chôn?
Tôi bay về lại Saigon ngay ngày hôm sau. Tôi không
muốn nấn ná nhìn dung nhan tiều tụy của người con gái mình đã yêu. Dọc đường,
tôi vặn IPod nghe lại bài hát Chiều Vàng của Nguyễn Văn Khánh. Có lẽ đây là bài
điếu cho đám tang của Đàlạt hay sẽ là lời phán của Gandhi, “Trái đất cung ứng
đầy đủ cho nhu cầu (need) của con người, nhưng không bao giờ đủ cho lòng tham
(greed) của họ.”
“Năm tháng trôi qua sóng gió đời…
Chiều chiều nhớ em khôn lòng nguôi…”
Chiều chiều nhớ em khôn lòng nguôi…”
15 April 2013
TS
Alan Phan
No comments:
Post a Comment