28/09/2012
Hưng Việt là một quốc gia bán đảo ở hành tinh Anpha theo
chế độ quân chủ lập hiến do đảng Gama lãnh đạo. Nền kinh tế nước này chậm phát
triển, công nghệ mới chỉ làm được chiếc xe ngựa bằng gỗ, bánh cao su. Câc thiết
bị, phương tiện hiện đại như, ô tô, xe lửa, tàu thủy … đều phải mang lúa, quặng
đổi cho nước ngoài mà có.
Thực ra, vào giữa thế kỷ trước, so với các quốc gia trong
khu vực thì Hưng Việt là quốc gia đáng nể, nhiều nước thèm thuồng có được “Hòn
ngọc cực nam” – một thành phố buôn bán sầm uất của Hưng Việt. Chỉ sau khi nhà
vua thực hiện chính sách cai trị học được của một nhà quái luận dưới Trái Đất
thì nước này mới bị tụt hậu so với thiên hạ.
Phép cai trị của nhà vua là thực hiện song song chính
sách bàn tay sắt và bàn tay nhung. Tuy vậy, chính sách này không sử dụng theo
kiểu lá mặt lá trái mà rất rõ ràng, nhất quán. Bàn tay nhung dùng để vuốt ve,
che chở, khuyến khích đám quan lại, lính lệ hăng hái làm việc còn bàn tay sắt
dùng để trị dân đen. Với chính sách này, ngai vàng của nhà vua qua nhiều chục
năm vẫn chưa hề suy chuyển. Ơn mưa móc của nhà vua khiến từ quan đến lính đều
chịu ơn sâu, trung thành tuyệt đối.
Đám quan lại được thể tha hồ bóc lột dân nghèo. Dân bị đè
nén áp bức nhiều quá, lời oán thán khắp nơi.
Đám lính lệ ngày càng trở nên kiêu binh. Chúng bảo nhau
“Còn vua còn mình” và yên tâm làm tất cả những gì chúng thích mà không sợ bị
nhà vua quở phạt. Có tên say máu đánh chết người vì lỗi rất vớ vẩn là không đội
nón để tự bảo vệ tính mạng của mình trước các tia phóng xạ trong vũ trụ, nhà
vua cũng chỉ bỏ tù 4 năm lấy lệ. Quan Bộ Hình bảo, tội ngươi quá rõ ràng không
bỏ tù không xong nên không thể tha bổng. Ngươi cứ yên tâm ở tù một hai năm rồi
quốc vương sẽ tìm cách đặc xá. Ta sẽ chỉ đạo bọn quản giáo, đại bàng để chúng
không dám động đến ngươi. Nhớ vợ thì hàng tuần ta cho gặp 24 giờ. Như vậy,
ngươi có ở tù cũng như là không mà lại bịt được mắt dân.
Vì thế, chẳng tên nào ngán luật vua, cứ thích bắt ai là
bắt, giết ai là giết. Có ai khuyên giải, phân tích đúng sai thì chúng bảo: Luật
vua là cái đéo gì. Luật là tao đây này.
Dân chúng thấy thế, ai cũng sợ.
Chuyện lính lệ bắn giết dân xảy ra như cơm bữa. Nhiều
người bị lôi vào đồn hôm trước, hôm sau thấy triều đình loan tin vì sợ tội mà
tự tử.
Mặc dù vậy, sự phản ứng của dân chúng ngày càng lên cao.
Họ bị quan lại cướp ruộng vườn, không chống trả được thì cởi truồng ra giữ đất,
hy vọng nhà vua sợ xấu mặt mà chùn tay. Lại có mẹ của một tù nhân, vì con bị
kết án oan nên tự thiêu để phản đối. Hôm sau, thấy nói bà ấy tranh giành đất
với hàng xóm nên tự thiêu chứ không có bất bình gì với chính sách của nhà vua
cả.
Hán Quốc là nước láng giềng rộng lớn, chuyên bắt nạt các
nước nhỏ, nhất là các quốc gia có chung biên giới. Nhân khi Đại Đồng có chuyện
nội bộ, bèn đem chiến thuyền ra chiếm đảo. Dân chúng phẫn nộ kéo nhau đến kinh
thành biểu tình phản đối. Nhà vua sợ Hán Quốc nổi giận đem quân vào đất liền
như dạo trước, bèn bắt hết dân biểu tình nhốt lại.
Từ khi lập quốc, Hưng Việt chưa bao giờ rối ren như thế.
Một hôm vua ngự triều, hỏi các quan:
- Tình hình đất nước bây giờ lòng dân không yên, biểu
tình khắp nơi, dân chúng bày ra rất nhiều cách để phản đối Hoàng gia. Bây giờ
làm thế nào?
Quan Bộ Hình thưa:
- Tâu bệ hạ, người ta có câu “bạc như dân”. Nhờ ơn đổi
mới của nhà vua, một bộ phận không nhỏ đã có cơm ăn, áo mặc. Nhưng chúng có bao
giờ thỏa mãn. Được ăn no rồi lại còn đòi dân chủ với tự do. Tự do cái con củ
cặc.
Biết lỡ lời, quan Bộ Hình thè lưỡi, rồi tự bịt miệng lại,
vả vào mình mấy cái, mặt tái mét lo bị tội khi quân. Ông này xuất thân từ đám
giang hồ, được vua chiêu dụ về trông coi việc hình trong triều nên nói năng
không tránh khỏi lỗ mãng nhưng được cái nhiệt tình hăng hái nên nhà vua vẫn tin
dùng.
Nhà vua đang mải lo chuyện lớn nên không chấp. Mặt khác,
vua cũng là đấng minh quân nên hiểu quan lại ăn nói quá trớn cũng do được nuông
chiều quá mà ra nên không nỡ quở trách.
Nhà vua băn khoăn:
- Nhưng mấy năm nay, quân lính đánh chết dân, các khanh
cướp bóc của dân nhiều quá, trẫm sợ lòng dân căm phẫn mà nổi loạn,
Quan Bộ Hình trấn an vua:
- Muôn tâu, phép trị dân phải cứng rắn, không được mềm
lòng. Vừa qua, ta có làm chết vài chục mạng cũng chẳng qua do sơ suất cả. Khi
thần cho lính tráng bắt kẻ phạm tội vào đồn, đứa thì tự nhiên biểu hiện sức
khỏe không bình thường, động khẽ vào là lăn ra chết, có đứa chết là do súng
cướp cò, có đứa trọng tội, sợ quá nên tự tử. Bệ hạ cai trị dân mà mủi lòng thì
ngai vàng sao có thể muôn thuở được. Ta lại có lực lượng chuyên chính mang tên
nhân dân, sợ gì. Hán Quốc là nước lớn, lại chung lý tưởng với ta. Mấy hòn đảo
bé tẹo chẳng qua chỉ là mấy bãi chim ỉa, bạn có trót lấy thi ta có thiệt hại
gì. Chẳng qua dân chúng lợi dụng việc ấy mà làm ra to chuyện. Việc nhà vua cho
bắt nhốt so với cách làm của Hán Quốc là quá nhẹ. Trước đây, bạn đem cả đại
bác, xe tăng dẹp biểu tình, cán nát hàng nghìn tên nổi loạn thì đã có sao đâu.
Vừa rồi, bạn thu hồi đất, dân nghe thế lực thù địch xúi giục, ra phản đối, bạn
còn mang xe lu cán nát, đầu óc be bét, chân tay đứt rời từng mẩu thì dân chúng
làm gì được. Ta cư xử với dân như thế là nhân đạo lắm rồi.
Quan cơ mật viện thưa:
- Việc dân chúng đòi hỏi là do mắc âm mưu diễn biến hòa
bình. Trước đây chúng có biết dân chủ với tự do là cái gì đâu. Nước Chế từ khi
bị ta đánh bại vẫn còn hận lắm. Hồi thua chạy, chúng tuyên bố lúc này không
đánh được ta thì chúng sẽ đợi khi thế hệ chúng ta đã ra đi hết sẽ ra tay, không
đánh cũng thắng. Bây giờ thì thế hệ nòng cốt toàn sinh sau chiến tranh cả,
chúng nghĩ khác chúng ta lắm. Còn mấy tay cựu chiến binh đứa nào còn sống thì
cũng đã già nua, đánh đấm gì.
Nhà vua lo lắng:
- Tình hình như vậy là quá bất ổn. Không thể tiếp tục
cách cai trị cũ được. Các khanh tính sao?
Quan cơ mật viện hiến kế:
- Thần trộm nghĩ, nếu dân không thích cho nhà vua cai trị
thì cho chúng tự do để vua khỏi mang tiếng áp bức dân.
Trước hết là phân loại dân, lấy một nửa ít lòng dạ với
nhà vua nhất cho chúng về phía Nam xem không có nhà vua cai trị thì chúng nó
sống như thế nào. Nửa còn lại cho ở với nhà vua. Dân chúng ở phía Nam ai một
lòng với vua thì cũng cho ra Bắc. Dưới sự trị vì của nhà vua, lại được các quan
lại toàn tiến sĩ cử nhân thấm nhuần chủ nghĩa đại đồng, tức là toàn đỉnh cao
trí tuệ giúp việc, bọn bất đồng chính kiến không còn, lo gì mà nước ta không
hùng mạnh. Còn bọn thích tự do chắc chỉ cùng lắm được một năm là chúng sẽ chán.
Bọn chúng dân đen, rặt quân ngu si, ít học, không có vua chúng tìm đâu ra ánh
sáng. Chẳng chóng thì chầy chúng lại quay về xin được nhà vua chăn dắt mà thôi.
Lúc ấy có cho kẹo thì chúng cũng không dám ho he đòi tự do dân chủ gì nữa.
Vua cho là phải, đồng ý chia đất nước làm hai miền. Ngài
cho 43 triệu dân tự nguyện xuống phía Nam, lựa 43 triệu ở lại với mình. Lạ kỳ
thay, trong số ra đi có tới hơn một nửa trí thức của đất nước. Số non nửa trí
thức còn lại thì toàn là bằng mua cả.
Mấy chục năm sau, chẳng hiểu bằng cách nào, Nam Hưng Việt
(lúc này đã đổi tên thành Nam Quốc) trở thành quốc gia phát triển nhất khu vực.
Từ chỗ chỉ chế tạo được chiếc xe ngựa kéo, nền kinh tế của Nam Quốc đã đi những
bước thần kỳ. Các ngành chế tạo máy, ô tô, công nghệ thông tin … phát triển với
tốc độ phi mã, xuất khẩu sang các nước khác trên hành tinh mỗi năm thu về vài
chục tỉ Anpha tệ. Họ dự kiến trong 10 năm nữa, khi công nghiệp hàng không vũ
trụ phát triển sẽ tính đến chuyện xuất khẩu hàng hóa xuống Trái Đất.
Còn Bắc Hưng Việt, quan quân sống dư dật được mấy năm đầu
do kho bạc còn tích trữ được. Vua quan lính tráng suốt ngày đi hát karaoke, gối
đùi gái tơ, vui vẻ lắm. Không còn ai đòi dân chủ với tự do, không còn ai biểu
tình. Cánh blogger hay bới móc cũng theo đám dân thích tự do đi xuống phía Nam
cả. Tình hữu nghị với bạn láng giềng phương Bắc lại thắm thiết như môi với
răng.
Nhưng rồi của kho mãi cũng cạn. Dân Bắc Hưng Việt toàn
dòng dõi nhà quan nên không quen lao động. Nhóm tiến sĩ từng có công trình
nghiên cứu về cây lúa nước được vua ban tặng giải thưởng Hoàng gia định áp dụng
làm cuộc cách mạng xanh để cải thiện tình trạng thiếu lương thực nhưng lại
không biết mặt mũi cây lúa nước ra làm sao. Chỉ có nông dân thì biết nhưng
chẳng lẽ tìm vào Nam Quốc mời họ ra chỉ để làm mỗi việc nhận mặt cây lúa.
Nghề mà Bắc Hưng Việt thạo nhất là nghề lãnh đạo và sản
xuất nghị quyết thì nội địa không dùng tới vì dân số toàn là quan lại, có xã bé
tí cũng có tới 500 quan lớn nhỏ. Nghị quyết thì chỉ để lãnh đạo dân thường mà
dân thường thì không có. Có viên quan đề xuất với nhà vua xuất khẩu công nghệ
lãnh đạo và sản xuất nghị quyết sang các nước để thu ngoại tệ nhưng làm
marketing mãi vẫn không ký được hợp đồng nào. Đồng ruộng bỏ hoang hóa, các nhà
máy thu hẹp sản xuất. Đám quan lại thoái hóa biến chất nhân cơ hội liền tháo dỡ
nhà xưởng, tàu thuyền của các quả đấm thép đem bán sắt vụn. May mà dân Nam Quốc
đã tự nguyện trả món nợ 50 tỉ Anpha tệ vay của nước ngoài trước đây nên bớt đi
nỗi lo trả nợ. Nam Quốc hàng năm còn viện trợ nhân đạo cho Bắc Đại Đồng mấy
trăm nghìn tấn gạo nên cũng giải quyết được phần nào nạn đói. Nhưng điều đáng
lo nhất của Bắc Hưng Việt là không có dân để chăn dắt. Nỗi đau khổ này còn hơn
cả không có cơm ăn, áo mặc. Họ chờ, chờ mãi không thấy Nam Quốc cử người ra mời
họ vào lãnh đạo. Nhà vua định đem quân giải phóng Nam Quốc với mục tiêu chiếm
láy ít của cải và nhất là chiếm lấy mươi triệu dân để lãnh đạo cho đỡ nhớ nhưng
đất nước lúc này toàn quan, không ai quen đánh trận cả.
Trên mạng internet có một bức ảnh nghe nói là bán đảo
Hưng Việt về ban đêm được chụp từ vệ tinh. Thông tin này chưa được kiểm chứng
27/9/2012
NTT
No comments:
Post a Comment