Lê Quang Việt (Luật Của Sự Thật )
26-9-2012
Lê
Quang Việt (LCST) - Trong thời gian gần đây đã có nhiều học
giả và ngay cả một số vị Đại biểu trong Quốc hội kêu gọi Hiến Pháp và Luật Pháp
Việt Nam cần phải được sửa đổi cho phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại,
nhưng quan trọng hơn hết cho phù hợp với xã hội và lòng người Việt Nam. Tuy
nhiên, cho dù có sửa đổi bao nhiêu lần đi chăng nhưng cốt lõi vẫn thiếu sự tôn
trọng quyền con người thì liệu nó có mang đến lợi ích gì chăng. LCST xin được
giới thiệu đến cùng quí bạn bài phân tích của Lê Quang Việt bên dưới về
"Mảng Trống Nhân Quyền".
Trong khi tôi đang ngồi trên bàn làm việc để viết những dòng này
thì trên khắp mọi nẻo đường của cuộc sống, từ vùng thành thị đông đúc cho tới
vùng làng mạc hẻo lánh, xa xôi có biết bao nhiêu con người đã và đang dùng
lương tâm đạo đức, sự chính trực và trí tuệ của họ đấu tranh bảo về quyền con
người. Họ không khuất phục trước đòn roi tra tấn, đánh đập, bắt giữ và giam giữ
tùy tiện, bị đe dọa mạng sống, bị quấy rối, phỉ báng và bị cấm tự do hoạt động,
tựdo ngôn luận, lập hội và hội họp để đấu tranh cho bảo vệ quyền con người - thành tựu chung của cả loài người.
Quyền con người là thành tựu chung của cả
loài người, là kết tinh của nền văn minh nhân loại. Một xã hội muốn được coi là công bằng, dân chủ, văn minh
thì trước hết trong xã hội đó phải tôn trọng quyền con người.Ngược lại, nơi nào quyền con
người bị phủ nhận và chà đạp, thì cho dẫu không có chiến tranh đẫm máu, người
ta chỉ sống trong một thứ hòa bình giả tạo mà thôi. Lịch sử loài người cho thấy, tri thức về quyền con người
có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển và tiến bộcủa các xã hội cũng như là
tiền đề cho sự phát triển đầy đủ về nhân cách và năng lực của mỗi cá nhân. Ở
phạm vi rộng hơn, tri thức về quyền con người là tiền đềcho hòa bình và thịnh
vượng của toàn nhân loại.
Cho đến nay, chúng ta phải thừa nhận rằng
khó có thể tìm thấy một định nghĩa triết học “kinh điển” nào về quyền con
người. Ngay cả những nhà tư tưởng lớn như Lôccơ,Rútxô… và sau này Mác, Engen,
Lênin cũng không đưa ra một định nghĩa nào về khái niệm này giống như cách làm
thông thường đối với các khái niệm triết học khác. Quyền con người (human
rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau (theo một
tài liệu của Liên Hiệp Quốc, có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã
được công bố) ( United Nations: Human Rights: Question and
Answers, Geneva, 1994.). Chúng ta thường chỉtìm thấy
các định nghĩa kiểu như “quyền con người người là quyền…“.Chẳng
hạn, Lốccơ nói : “quyền tự nhiên của con
người là quyền sống, quyền tự do, quyền tư hữu” . Các văn bản pháp lý đầu tiên quy định vềquyền con người
là " Luật về các quyền" của Anh (1689); " Tuyên ngôn độc
lập" của Hoa Kỳ (1776); "Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền" của
Pháp (1789). Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ 1776 viết: quyền con người – đó là “các quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc”. Hiến pháp 1791 của Pháp viết: quyền con người – đó là “ quyền tự do, sở hữu, được an toàn và chống lại áp bức”.
Cho đến nay, từ Đông sang Tây đã có rất nhiều định nghĩa về quyền con người, có
những định nghĩa liệt kê quyền con người bao gồm những quyền cụ thể nào đó, có
những định nghĩa rất khái quát. Mỗi
định nghĩa tiếp cận vấnđề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất
định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền
con người.
Ngày 10 tháng 12 năm 1948, Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc đã long
trọng tuyên bố bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền. Ðây là lần đầu tiên trong
lịch sử nhân loại, cộng đồng thế giới đã đưa ra một văn kiện đầu tiên của bộ luật quốc tế vềquyền con người.
Ngày nay, bảo vệ quyền con người đã trở thành một nguyên tắc cơbản của pháp
luật quốc tế. Khoản 1 và 2 của bản tuyên ngôn nhân quyền đã khẳng định rằng: “Tất cả mọi người sinh ra đều tựdo và bình
đẳng trong phẩm giá và quyền lợi, và mỗi một cá nhân, không phân biệt chủng
tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, nguồn gốc dân tộc hay
xã hội... đều được hưởng mọi quyền lợi và tự do, được công bố trong bản tuyên
ngô .Về mặt lý luận, các quyền con người
(các quyền cá nhân) được chia thành hai nhóm chính là nhóm các quyền dân sự,
chính trị và các nhóm các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Cả hai nhóm quyền này
cùng được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới vềquyền con người năm 1948.
Bản tuyên ngôn nhân quyền đã được công bố một thời gian ngắn sau đệ nhị thế
chiến. Thảm kịch của chiến tranh đã cho nhân loại mỗi lúc một hiểu rằng hòa
bình chỉ thực sự có khi con người biết tôn trọng quyền lợi và tự do căn bản của
con người.
Ở Việt Nam các quyền cơ bản của con người cũng đãđược khẳng định
trong Hiến pháp và nhiều văn bản luật. Một số định nghĩa về quyền con người do
một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống
nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi
ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Quyền con người và luật
quốc tế về quyền con người từ lâu đã là một chuyên ngành nghiên cứu riêng
ởnhiều nước trên thế giới, tuy nhiên, mới chỉ chính thức trở thành chủ đề
nghiên cứu ở Việt Nam trong khoảng hơn hai thập kỷ gần đây. Điều đó trước hết
là bởi quyền con người, ít hoặc nhiều tùy theo đối tượng, vẫn còn được cho là
chủ đề “nhạy cảm’’ ở Việt Nam.
Theo tôi, khái niệm chung về quyền con người phải được xác định trên ba bình diện giá trị, đó là giá trị đạo đức và giá trị pháp
lý và giá trị văn hóa. Về bình
diện giá trị đạo đức, quyền con người là một giá trị xã hội cơ bản, vốn có của
con người. Về bình diện giá trị pháp lý, quyền con người là một chế định pháp
luật được quốc tế và mỗi quốc gia đảm bảo thực hiện.Theo luật pháp quốc tế cũng
như luật pháp trong nước thì quyền con người bao gồm các quyền cơ bản như: quyền
sống, quyền tự do và an ninh cá nhân, quyền bình đẳng trước pháp luật và được
pháp luật bảo vệ, quyền được tự do đi lại và cư trú, quyền tự do tư tưởng, tín
ngưỡng và tôn giáo, quyền tựdo ngôn luận, tự do biểu đạt...Đồng
thời, chúng ta phải nhận thức rằng vấn đề quyền con người là sự kết tinh các
giá trị văn hóa của các dân tộc trên thế giới chứ không phải là sản phẩm riêng
của bất kỳ một giai cấp, dân tộc hay khu vực nào; và xu hướng chung trên thế
giới trong thế kỷ XXI thì quyền con người sẽ được tôn vinh và bảo đảm ngày càng
chặt chẽ hơn, cả trên phương diện quốc gia và quốc tế. Những nhận thức như vậy
bước đầu đã giúp giải tỏa một số quan điểm ấu trĩ cho rằng nhân quyền hoàn toàn
là ‘sản phẩm’ và công cụ của phương Tây nhằm can thiệp vào chủ quyền của các
quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các nước XHCN. Quyền con người là vấn đề
phức tạp đa nghĩa, chứa đựng những mặt đối lập, mâu thuẫn, nhưng không loại trừ
nhau. Đó là các mặt khách quan và chủ quan, tự nhiên và xã hội, kinh tế và tinh
thần, văn hoá và chính trị,đạo lý và luật pháp. Nó cũng là sự kết hợp giữa các
yếu tố quốc tế và dân tộc, giai cấp và nhân loại. Khi xem xét quyền con người,
chúng ta phải phân biệt rõ bản chất và hiện tượng nội dung và hình thức, nguồn
gốc và sự phát triển của nó. Xuất phát từ tất cả những khía cạnh đó, có thể nói
rằng quyền con người chẳng qua là sự tự ý thức của con người về những giá trị,
những nhu cầu sống cơ bản, phù hợp với trình độ phát triển mang tính thời đại của xã
hội loài người.
Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người
cũng được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và
tuân thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân
loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực
này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới
có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con
người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là
quyền con người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi
xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử. Tất cả các quốc gia văn minh đều nỗ lực
xác định và ủng hộ nhân quyền. Ở đâu cũng vậy, cốt lõi của khái niệm này là
giống nhau, đó là: nhân quyền là các quyền mà mỗi con người đều có. Nhân quyền
là của mọi người và bình đẳng cho mọi người. Nhân quyền cũng là những quyền bất
khả xâm phạm.
Ở phạm vi bài viết này, như đã nói ở phần đầu “nhân quyền” là
một phạm trù đa diện vì vậy thiết nghĩ vấn đề nhân quyền cũng nên được xem xét
một cách tổng thể trên tất cả các mặt. Chúng ta không nên nhìn nhận vấn đề một
cách cực đoan, xem nhẹ hay cường điệu hóa một mặt nào đó vấn đề nhân quyền ở
Việt Nam. Tiếp cận vấn đềnhân quyền trên mặt pháp lý, chúng ta cũng phái khách
quan nhìn nhận rằng Chính phủ Việt Nam đã tham gia nhiều văn kiện quốc tế ở
nhiều khía cạnh liên quan đến vấn đề nhân quyền và từng bước nội luật hóa. Thực
hiện yêu cầu của viêc xây dựng, ban hành kịp thời, thực hiện các pháp luật,
cácđiều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công
dân…,nhiều giá trị tiến bộ của nhân loại về quyền con người trong các lĩnh vực
dân sự,chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội quy định trong các điều ước quốc tế
mà nước ta là thành viên đã được thừa nhận và từng bước được nội luật hoá. Lần
đầu tiên trong Hiến pháp nước ta đã thừa nhận thuật ngữ quyền con người; bỏ
hình phạt tửhình đối với nhiều tội trong Bộ luật Hình sự; vai trò của luật sư,
của tranh tụngđược ghi nhận trong các bộ luật tố tụng và từng bước được thực
thi trong đời sống. Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước lần đầu tiên ra
đời ở nước ta… Đó là những tư duy pháp lý mới về quyền con người, quyền công
dân ngày càng được khẳngđịnh và ghi nhận trong hệ thống pháp luật và trong thực
tiễn ở Việt Nam thời gian qua.
Tuy nhiên, đối chiếu với đòi hỏi của thực tiễn thời kì mới hội
nhập, mở cửa một khi các quan hệxã hội biến đổi nhanh chóng, các quan hệ xã hội
mới hình thành thì pháp luật về đảm bảo quyền con người vẫn còn đặt ra những
câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng.Luật
pháp quy định như vậy nhưng trong thực tế quyền con người có được thực thi
nghiêm chỉnh hay không lại là một chuyện khác. Đây là một câu chuyện dài, rất
dài...Nhưng "tinh thần thượng tôn pháp luật", "luật pháp bất vị
thân", "phụng công thủ pháp chí công vô tư" "sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật"...vẫn đang là những câu khẩu hiệu treo
lơ lửng trước mắt mọi người!
Thực tế, vấn đề nhân quyền là một vấn đề luôn mang tính thời sự
và thu hút sự quan tâm của dư luận. Dư luận trong và ngoài nước có thể có nhiều
cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau về vấn đề thực hiện nhân quyền ở Việt Nam,
gần đây dư luận biết đến nhiều sự kiện phản ánh vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.Thực tiễn cho thấy ở Việt Nam có không ít
những vụ việc xâm hại đến quyền của con người nhưng cơ quan bảo vệ pháp luật
phản ứng quá chậm chạp, khi giới truyền thông lên tiếng thì sự việc gần như mới
lọt vào tầm ngắm của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đó là các vụ hành hạ dã man
trẻ em, nạn bạo hành liên miên với phụ nữ… Đâu là nguyên nhân và giải pháp cho
thực trạng này? Một vài ví dụ cụ thểnhư: vụ Luật sư Lê Thị Công Nhân bị bắt tạm giam tại Hà Nội vào ngày 6 tháng 3 năm 2007
với lý do "hoạt động tuyên truyền chống nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam", và bị xóa tên khỏi danh sách Đoàn Luật sư Hà Nội. Việc bắt giam luật
sư Lê Thị Công Nhân gây ra những chỉ trích từ phía Cộng đồng chung như Liên
Hiệp Âu Châu, Hoa Kỳ và các tổ chức nhân quyền trên thế giới. Một
vụ khác như việc Tổng biên tập, phó tổng biên tập các tờ báo Thanh Niên, Tuổi Trẻ (Bùi Thanh, Vũ Kim Hạnh, Nguyễn Công Khế) bị thay đổi, kỷ luật
và rút thẻ nhà báo nhiều phóng viên vì liên quan đến việc đăng tin bài phản ánh
vụ án tham nhũng điển hình nhất lúc bấy giờ là vụ án PMU 18, vào năm 2008.
Qua một số sự kiên nêu trên chúng ta cần khách quan đánh giá
rằng phải chăng pháp luật về đảm bảo quyền con người, quyền tự do dân chủ của
công dân vẫn còn đó những“khoảng trống”, vẫn chưa thể chế hết các quyền mà hiến
định? Vì vậy, một số quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định nhưng
chưa có luật cụ thể hoá để công dân thực hiện như Luật Biểu tình, Luật về Quyền
lập hội, Luật về Quyền được thông tin, Luật về Quyền được bí mật đời tư… Từ năm 1988, với sự tuyên bố ngừng hoạt động của Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam, nhà nước Việt Nam không cho phép thành lập đảng, tổ
chức đối lập công khai cũng như phát hành báo chí tư nhân và biểu tình, mít
tinh ngoài biên chế. Những người bất đồng chính kiến đã dùng internet để phổ biến
quan điểm của họ rằng họ không đồng tình với chính sách, quy định nào đó của
nhà nước, qua hình thức diễn đàn, blog. Nhiều
người đã bị bắt giam vì theo
luật Việt Nam họ đã vi phạm Điều 88 Bộ luật Hình sự về hành vi chống Nhà nước. Tuy
nhiên, pháp luật hiện hành về đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong
lĩnh vực tư pháp hình sự, nhất là các quyđịnh về giam giữ, điều tra, cải tạo,
truy tố, xét xử… chưa thực sự phù hợp với các chuẩn mực quốc tế trong quản lý
tư pháp. Tình trạng luật sư chưa được tham gia ngay từ giai đoạn khởi tố bị
can, gia hạn tạm giam nhiều lần - kéo dài hàng năm, thậm chí nhiều năm - trong
quá trình điều tra… là những biểu hiện vi phạm trong quản lý nhà nước về tư
pháp hình sự, không phù hợp với tập quán và thông lệ quốc tế. Luật Trưng cầu
dân ý, Luật Tham vấn và phản biện xã hội là những đạo luật tạo điều kiện cho
nhân dân thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước một cách trực tiếp, đến nay
chưa có.
Hiện nay có một số nhà bất đồng chính kiến
nổi tiếng như Cù Huy Hà Vũ, Dương Thu Hương, Hoàng Minh Chính, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Văn Đài, Lê Công Định, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Lý, NguyễnĐan Quế, Phạm Hồng Sơn, Thích Quảng Độ, Trần Huỳnh Duy Thức, Phạm Minh Hoàng, Nguyễn Tiến
Trung, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Trần Khải Thanh Thủy,
Tạ Phong Tần….Những người bộc lộ tư tưởng chỉ trích sự
lãnh đạo của Đảng được coi là cácđối tượng "bất đồng chính kiến",
và ở mức cao hơn là "thế lực thù địch" và có thể bị nghiêm trị. Trong
một số trường hợp, những người bảo vệ quyền con người là đối tượng bị buộc tội
hoặc bị các cáo buộc khác dẫn đến việc họ bịtruy tố và kết án. Các vụ biểu tình
hòa bình, đệ trình đơn khiếu tố chính thức chống lại sự ngược đãi của cảnh sát
hay việc tham gia vào cuộc mít tinh của những người bảo vệ quyền con người
trong nước hay việc giương biểu ngữ tưởng niệm những nạn nhân của các hành vi
vi phạm quyền con người đều bị truy tố theo những tội như hối lộ, phá hoại trật
tự công cộng, gây rối. Những bản án đưa ra trong trường hợp này bao gồm cả việc
phạt tù dài hạn. Tuy nhiên, pháp luật về chế độ bảo hộ
của Nhà nước đối với các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung, nhất
là bảo hộ các quyền của công dân trước các cơ quan tư pháp nói riêng, chưa được
đảm bảo. Người dân chưa thật sự tin tưởng vào các bản án của Toà án. Cơ chế bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân chưa đi tới cùng. Công dân chưa có
quyền yêu cầu xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp
luật được các cơ quan công quyền áp dụng đối với mình. Cơ chế xem xét và xử lý
các vi phạm pháp luật từ phía Nhà nước đối với các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân chưa thật sựbình đẳng.
Công dân vẫn còn thiệt thòi trong mối quan hệ với Nhà nước khi
bị cơ quan nhà nước, nhân viên cơ quan nhà nước có thẩm quyền xâm hại tới quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Luật Trách nhiệm bồi hường của Nhà nước đã được
ban hành, nhưng còn rất khó khăn khi thực hiện trong thực tế. Chưa có cơ chế
bảo vệ công dân một cách có hiệu quả trong việc thực hiện quyền tố cáo, nhất là
tố cáo người có chức vụ, quyền hạn tham nhũng, tiêu cực.
Hiện nay chưa có sự rõ ràng giữa "phản
biện xã hội" và "chống phá cách mạng" tại Việt Nam. Ví dụ điển hình như trường hợp Cù Huy Hà Vũ có các bài phát biểu đi ngược lại tư tưởng và đường lối
lãnh đạo của Đảng đã bị buộc tội "chống
phá nhà nước xã hội chủ nghĩa". Theo Tuyên ngôn Quốc
tế Nhân quyền mà Việt nam đã ký
cam kết thực hiện, công dân có quyền "tự do tư tưởng", sự phân
định giữa "phản biện" và "tuyên truyền chống phá" là chưa
nhất quán. Loại hình bảo vệ lợi ích
của mình và phản đối các bất cập trong quy chế xã hội vẫn
xảy ra như nông dân khiếu kiện và biểu tình chống
bất công trong việc trưng thu đất đai của họ như vụ việc của ông Đoàn Văn
Vươn ởHải Phòng, công nhân đình công đòi tăng lương và
tăng quy chếbảo vệ xã hội, sinh viên đòi giảm học phí, người dân chống tăng giá
xăng. Việt Nam hay bất kì nhà nước nào một khi đã tham gia vào các
qui ước quốc tế thì nhà nước đó phải có nghĩa vụ phải tuân thủ theo các qui
ướcđó. Nhà nước phải kiềm chế không can thiệp, kể cả trực tiếp hoặc gián
tiếp,vào việc hưởng thụ các quyền con người của mọi cá nhân. Đồng thời chính
quyền phải có nghĩa vụ bảo vệ, ngăn chặn sự vi phạm các quyền con người của các
bên thứ ba, phải có những biện pháp chủ động nhằm hỗ trợ mọi cá nhân hưởng thụ
đầyđủ các quyền con người, đặc biệt là các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Là
thành viên của nhiều qui ước quốc tế hiện hành về quyền con người do Liên hợp
quốc ban hành, Việt Nam có nghĩa vụ bảo đảm các quyền con người được ghi nhận
trong các qui ước mà chính mình đã phê chuẩn hoặc gia nhập. Điều này cũng sẽgóp
phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo hướng công bằng, dân chủ.
Tóm lại, tuy đã thừa nhận và thể chế thành pháp luật nhiều giá
trị mới, nhưng pháp luật về quyền con người cũng còn những “mảng trống”,chưa
bao quát hết thảy các lĩnh vực, các loại chủ thể, các hình thức và phương tiện
thực hiện các quyền con người, quyền công dân mà Hiến pháp và cuộc sốngđòi hỏi.
Do đó, trong thực tế ở một số lĩnh vực quyền con người, quyền công dânđược thực
hiện còn hình thức, chưa đảm bảo để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình một cách hữu hiệu trong mối quan hệ với Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh
vực tư pháp hình sự.
Trong phạm vi bài viết, để có thể thực hiện tốt vấn đề nhân
quyền với tầm nhận thức và tri thức nhỏ bé của mình tôi chỉmạnh dạn góp ý ba
vấn đề: thứ nhất, về nghiên cứu khoa học về nhân quyền; thứhai, vấn đề về hoàn
thiện pháp luật về nhân quyền; thứ ba, vấn đề giáo dục nhân quyền.
Nghiên cứu khoa học về quyền con người là
một hoạt động cần thiết và quan trọng, bắt nguồn từnhu cầu hội nhập quốc tế nói
riêng và sự nghiệp đổi mới nói chung ở Việt Nam. Tuy
nhiên, xét về mọi khía cạnh, hoạt động nghiên
cứu khoa học về quyền con người ởViệt Nam hiện mới chỉ ở giai đoạn đầu, còn
nhiều hạn chế cả về mức độ, phạm vi, kết quả nghiên cứu và hiệu quả ứng dụng. Việc thúc đẩy
hoạt động nghiên cứu khoa học về quyền con người là một yêu cầu cần thiết và
cấp thiết trong thời gian tới nhà nước cần tiếp tục khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi về mọi mặt cho hoạt động nghiên cứu trên lĩnh vực quyền con
người trong khuôn khổ pháp luật quy định, bao gồm việc cho phép thành lập thêm
các cơ sởnghiên cứu mới và đào tạo các chuyên gia có kiến thức chuyên sâu về
lĩnh vực này.
Cơ chếbảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi bị Nhà
nước, các nhân viên nhà nước có thẩm quyền xâm hại đến còn chưa bình đẳng. Dân chủhoá tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước cũng là một đòi hỏi bức thiết, cần phải công khai, minh bạch hơn nữa, cần
nghiên cứu xây dựng Luật về Công khai minh bạch hoạt động của cơ quan nhà nước
và người có thẩm quyền. Theo đó, trong thời gian tới cần xây dựng Luật về Cơ
quan bảo hiến độc lập; Luật về Quyền tiếp cận thông tin, Luật về Phản biện xã
hội và tham vấn nhân dân, Luật Thanh tra nhân dân, bổ sung hoàn thiện các luật
hiện có về giám sát của Quốc hội, Luật Thanh tra; Luật Phòng, chống tham nhũng,
Luật Báo chí…Mặc khác, để nhân dân trực tiếp tham gia vào đời sống nhà nước
ngày càng đông đảo và thực chất, cần xây dựng Luật Trưng cầu dân ý, Luật Tham
vấn và phản biện xã hội; Luật Bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực
trong; Luật Giám sát của nhân dân. Tiếp tục hoàn thiện các luật hiện có như
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Khiếu nại, tố cáo…Xuất phát từ
thực trạng pháp luật hiện hành về quyền con người và quyền tự do dân chủ của
công dân, nhu cầu đầu tiên của hoàn thiện pháp luật về quyền con người là phải tiếp tục cụ thể hoá các quyền hiến định. Theođó,
một mặt phải sớm ban hành các luật về quyền tự do lập
hội, quyền tự do hội họp, luật biểu tình, luật tiếp cận thông tin, luật trưng
cầu dân ý… Mặt khác, phải nâng các pháp lệnh như Pháp lệnh về dân chủ cơ sở,
Pháp lệnh về tôn giáo tín ngưỡng, Pháp lệnh về xử lý vi phạm hành chính... lên
thành luật.
Quyền con người, quyền công dân không chỉ được thực hiện bằng
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật mà còn phải được tổ chức thực hiện pháp
luật trên thực tế. Vì thế, tuyên truyền giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật và văn hoá pháp lý về quyền và nghĩa vụ của công dân là một định
huớng quan trọng cùng với xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Bằng các hoạt động
nghiên cứu, xây dựng thư viện, dịch tài liệu, biên soạn giáo trình, giảng dạy
vềquyền con người, sẽ góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng trong lĩnh vực
này.
Tác giả tin tưởng rằng giáo dục nhân quyền, rất phù hợp với
truyền thống nhân đạo, với chủ nghĩa nhân văn của dân tộc, sẽ phát triển nhanh
chóng và đem lại hiệu quả thiết thực cho xã hội nếuđược chúng ta quan tâm đúng
mức. Tuy nhiên, có lẽ theo tác giả vấn đề đầu tiên là mỗi cá nhân phải biết,
phải hiểu được quyền của mình để đòi hỏi và tự bảo vệ.Thêm vào đó, mọi cá nhân
trong cộng đồng cũng cần có ý thức về nhân phẩm và tôn trọng quyền của người
khác.
Hà Nội, Ngày 26 tháng 9 năm 2012
Lê
Quang Việt
No comments:
Post a Comment