Friday 28 September 2012

SỰ XÂM PHẠM NGƯỜI BẢO VỆ NHÂN QUYỀN & KHÓ KHĂN KHÁC MÀ HỌ PHẢI ĐỐI DIỆN (Defend the Defenders)






Không phải tất cả công việc về quyền con người đều có nguy cơ rủi ro, và ở vài quốc gia người bảo vệ nhân quyền thường được bảo vệ tốt. Tuy nhiên, mức độ nghiêm trọng và tính quy mô của trả thù đối với người bảo vệ nhân quyền là một trong những động lực ban đầu nằm đằng sau việc thông qua Tuyên ngôn về Người bảo vệ nhân quyền và thành lập nhiệm vụ của Đặc sứ của Tổng thư ký về Người bảo vệ nhân quyền.

Đặc sứ đã bày tỏ lo ngại về tình hình của những người bảo vệ nhân quyền ở tất cả các quốc gia, bao gồm cả các nền dân chủ mới nổi và các quốc gia với thể chế dân chủ lâu đời, thực tiễn và truyền thống. Tuy nhiên, nhấn mạnh đặc biệt ở những nước: (a) đang xảy ra xung đột vũ trang nội bộ hoặc bất ổn xã hội nghiêm trọng, (b) bảo vệ pháp lý và thể chế và đảm bảo các quyền con người không được hoàn toàn hoặc không tồn tại tí nào.

Một con số rất lớn người bảo vệ nhân quyền, trong mọi khu vực của thế giới, đã chịu sự xâm phạm vào quyền con người của họ. Họ là mục tiêu của các vụ hành quyết, tra tấn, đánh đập, bắt và giam giữ tùy tiện, đe dọa giết chết, quấy rối và phỉ báng, cũng như hạn chế về quyền tự do đi lại, ngôn luận, lập hội và hội họp. Người bảo vệ nhân quyền là nạn nhân của những buộc tội sai trái và phán quyết và phiên tòa bất công.

Các vi phạm phổ biến nhất là nhắm vào hoặc chính người bảo vệ nhân quyền hoặc các tổ chức và cơ quan mà họ làm việc. Thỉnh thoảng, các vi phạm cũng nhắm vào thân nhân trong gia đình người bảo vệ nhân quyền, như là một biện pháp áp lực lên người bảo vệ nhân quyền. Một số người bảo vệ nhân quyền gặp nguy cơ cao hơn vì bản chất của các quyền mà họ tìm cách bảo vệ. Nữ bảo vệ nhân quyền đôi khi đối đầu với những rủi ro do giới tính và đòi hỏi sự chú ý đặc biệt.

Hầu hết các trường hợp, các hành vi làm phương hại người bảo vệ nhân quyền là vi phạm pháp luật quốc tế và cả quốc gia. Tuy nhiên, ở một số nước, pháp luật trong nước tự nó đi ngược với luật pháp quốc tế về quyền con người và được sử dụng để chống lại người bảo vệ nhân quyền.

A. Thí dụ về các hành động chống lại người bảo vệ nhân quyền

Các đoạn sau đây mô tả một số các hành vi vi phạm quyền con người và những trở ngại mà người bảo vệ nhân quyền phải đối mặt trong quá trình họ làm việc. Trong khi một số các hành vi này có thể xảy ra chỉ một lần, nhưng nó thường kéo dài ảnh hưởng lên người bảo vệ nhân quyền và gia đình của họ trong nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm sau đó. Thí dụ như đe dọa giết chết, có thể bắt buộc những người bảo vệ nhân quyền phải thay đổi thói quen hàng ngày của họ hoàn toàn, cũng như những người trong gia đình trực hệ của mình, hoặc thậm chí phải rời khỏi đất nước của họ để xin tị nạn tạm thời ở nước ngoài.

Nhiều người bảo vệ nhân quyền là nạn nhân của vụ sát hại như là một sự đáp lại trực tiếp đối với công việc nhân quyền của họ. Họ bị những kẻ lạ và đôi khi là các thành viên của các lực lượng an ninh bắt cóc và sau đó được tìm thấy đã chết hoặc biến mất hoàn toàn. Âm mưu ám sát đã khiến cho người bảo vệ nhân quyền bị thương nặng và phải nhập viện và phẫu thuật.

Trong một số khu vực của thế giới, các mối đe dọa giết chết được sử dụng rộng rãi như một phương tiện đe nẹt và hù dọa những người bảo vệ nhân quyền để họ dừng công việc. Các mối đe dọa thường ẩn danh, được thực hiện qua điện thoại hoặc thư. Tuy nhiên trong một số trường hợp các mối đe dọa được thực hiện bởi những người mà người bảo vệ nhân quyền có biết đến, nhưng những người này không bị cảnh sát tra vấn hoặc buộc tội. Sự thiếu hụt cảnh sát hiệu quả hoặc giải pháp tư pháp cho các vụ giết người và các mối đe dọa giết chết đang tạo ra một môi trường không bị trừng phạt, qua đó nó khuyến khích và kéo dài mãi những vi phạm.

Những người bảo vệ nhân quyền đôi khi bị bắt cóc, trong thời gian ngắn hay dài, và bị đánh đập trong thời gian họ bị giam cầm. Nhân viên quân sự, cảnh sát và các quan chức lực lượng an ninh đã đánh đập tàn nhẫn trong một nỗ lực tra tấn người bảo vệ nhân quyền, để họ nhận tội hoặc trả thù người bảo vệ nhân quyền vì tố cáo hành vi vi phạm của các lực lượng an ninh. Tùy tiện bắt và giam cầm người bảo vệ nhân quyền là phổ biến, và thường nhất là tiến hành mà không có lệnh bắt giữ cũng như buộc tội chính thức. Giai đoạn tạm giam tạm giữ, mà không có bất k xem xét tư pháp, đôi khi rất dài và bị giam trong điều kiện rất tồi tệ. Đặc biệt, người bảo vệ nhân quyền dễ bị đánh đập, hành hạ và tra tấn trong khi bị giam giữ.

Trong một số trường hợp, những người bảo vệ nhân quyền là đối tượng của các cáo buộc hình sự hay hình thúc khác dẫn đến bị truy tố và kết án. Các cuộc biểu tình hòa bình, nộp đơn khiếu nại chính thức phản đối ngược đãi của cảnh sát, tham gia vào một cuộc họp của các nhà hoạt động đòi quyền cho người bản địa hoặc giăng một biểu ngữ tưởng niệm nạn nhân của vi phạm nhân quyền, tất cả đã dẫn đến bị truy tố về các tội khác nhau như hối lộ, rối loạn công cộng, và côn đồ. Bản án trong các trường hợp này bao gồm án tù dài hạn, buộc cam kết nhập viện tâm thần và cải tạo lao động.

Quấy rối những người bảo vệ nhân quyền là phổ biến và thường không được báo cáo. Nó hầu như luôn luôn gây ra bởi chính quyền và có thể liên quan đến nhiều tình huống khác. Người bảo vệ nhân quyền bị giám sát và đường dây điện thoại của họ bị cắt hoặc nghe trộm. Họ bị tich thu giấy tờ đi lại và chứng minh thư, nhằm ngăn ngừa họ ra nước ngoài tham gia vào các diễn đàn nhân quyền. Luật sư nhân quyền đã bị đe dọa trục xuất khỏi đoàn luật sư hoặc bị đặt trong tình trạng điều tra. Người bảo vệ nhân quyền bị sách nhiễu hành chính, ví dụ như bị buộc phải nộp tiền phạt nặng nề vì tội hành chính tầm thường, hoặc báo cáo lặp đi lặp lại cho một cơ quan hành chính trong thời gian kéo dài mà không có lý do rõ ràng. Các thẩm phán bị loại khỏi chủ trì các vụ án đặc biệt hoặc bị đột ngột chuyển từ một khu vực thẩm quyền này đến một khu khác, đòi hỏi cả gia đình di chuyển đến một vùng khác của đất nước.

Người bảo vệ nhân quyền là nạn nhân của chiến dịch phỉ báng, với những luận điệu vu khống xuất hiện trong các phương tiện truyền thông nhà nước kiểm soát, tấn công tính chân thật và đạo đức của họ. Khiếu nại được giả tạo để làm mất uy tín các tổ chức phi chính phủ độc lập và các nhà báo vạch trần vi phạm nhân quyền. Người bảo vệ nhân quyền và công việc của họ bị công khai bóp méo, được mô tả như là, trong số những thứ khác, kẻ khủng bố, phiến loạn, phá hoại hoặc kẻ tạo ra các đảng đối lập chính trị. Chính quyền và các phương tiện truyền thông nhà nước đã đánh đồng những người bảo vệ nhân quyền với những người đang tìm kiếm sự bảo vệ quyền của họ, ví dụ như, người bảo vệ nhân quyền hoạt động hỗ trợ các quyền của những người từ các nhóm vũ trang chống đối, họ bị xem như nhập vào những nhóm đó.

Chính sách, pháp luật và các thủ tục được mô tả là các biện pháp an ninh, đôi khi được áp dụng theo cách hạn chế công việc của người bảo vệ nhân quyền và đôi khi nhằm vào chính những người bảo vệ nhân quyền. Với lý do an ninh, người bảo vệ nhân quyền bị cấm rời khỏi thị trấn của họ, và cảnh sát và các nhân viên khác của lực lượng an ninh đã triệu tập người bảo vệ nhân quyền đến cơ quan của họ, đe dọa họ và ra lệnh đình chỉ tất cả các hoạt động nhân quyền. Người bảo vệ nhân quyền bị truy tố và kết án theo luật an ninh mơ hồ và kết án giam tù nặng nề.

Ngoài vi phạm nhắm mục tiêu cá nhân, ở một số quốc gia còn có những xu hướng rõ ràng minh họa cho một chiến lược hạn chế môi trường mà những người bảo vệ nhân quyền hoạt động. Các tổ chức bị đóng cửa dưới cái cớ nhỏ nhoi; nguồn kinh phí bị cắt hoặc hạn chế vô lý, và những nỗ lực đđăng ký một tổ chức có nhiệm vụ quyền con người bị trì hoãn bởi cố ý quan liêu. CHính quyền cản trở tổ chức các cuộc họp giữa những người bảo vệ nhân quyền và ngăn chặn người bảo vệ nhân quyền đi điều tra các sự vụ nhân quyền.

Việc ban hành và thực thi pháp luật nhằm giảm thiểu sự thi hành hợp pháp và thụ hưởng các quyền tự do ý kiến, ngôn luận, tín ngưỡng tôn giáo, lập hội và đi lại, chẳng hạn như quy định của pháp luật về đăng ký và các quy định về các hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, hoặc pháp luật cấm đoán hoặc cản trở nhận tài trợ của các quỹ nước ngoài cho hoạt động nhân quyền, tất cả đã được sử dụng để sách nhiễu, cản trở công việc của những người bảo vệ nhân quyền.

Một số nỗ lực cản trở công việc của những người bảo vệ nhân quyền nhằm vào địa điểm, phương tiện làm việc của họ. Các văn phòng và / hoặc nhà của người bảo vệ nhân quyền là mục tiêu của tấn công, trộm cắp và lục soát trái phép. Cơ sở hoạt động của người bảo vệ nhân quyền bị đóng cửa bởi chính quyền, và các tài khoản ngân hàng của họ bị đóng băng. Trang thiết bị của họ và các tập tin, bao gồm cả máy vi tính, tài liệu, hình ảnh và đĩa mềm, đã bị đánh cắp hoặc bị tịch thu. Truy cập vào Internet và các thiết bị e-mail quốc tế đã bị hạn chế hoặc ngăn chặn hoàn toàn.

Tất cả các hành vi vi phạm vào các quyền của những người bảo vệ nhân quyền trở nên tồi tệ hơn qua sự nuôi dưỡng nạn không bị trừng phạt đối với hành vi xâm phạm quyền của những người bảo vệ nhân quyền, vốn tồn tại ở nhiều quốc gia.

B. Tình hình của Nữ bảo vệ nhân quyền

Nữ bảo vệ nhân quyền phải đối mặt với tất cả các hành vi được mô tả trong phần A nêu trên. Tuy nhiên, tình hình cụ thể và vai trò của họ đòi hỏi phải có cả hiểu biết đặc biệt và sự nhạy cảm trong cách thức mà họ có thể bị ảnh hưởng khác nhau bởi những áp lực như vậy và một số thách thức bổ sung. Đó là điều cần thiết đđảm bảo rằng nữ bảo vệ nhân quyền cũng như nam giới được bảo vệ và hỗ trợ trong công việc của họ, và thực sự, những phụ nữ này được xác nhận đầy đủ như người bảo vệ nhân quyền.

Các phần dưới đây cung cấp một vài ví dụ (không có nghĩa là một danh sách đầy đủ) cách thức mà nữ bảo vệ nhân quyền có thể phải đối mặt với áp lực khác với giới đàn ông phải đối mặt và cần được bảo vệ đặc biệt.

Như đã thảo luận trong phần C dưới đây, Nhà nước là thủ phạm chính của các hành vi vi phạm những người bảo vệ nhân quyền. Tuy nhiên nữ người bảo vệ nhân thường được tìm thấy quyền của họ bị vi phạm bởi các thành viên của các cộng đồng riêng của họ, những người có thể phẫn nộ và phản đối các hoạt động nhân quyền, một số nhà lãnh đạo cộng đồng có thể xem việc đó như thách thức nhận thức của họ về vai trò truyền thống của phụ nữ. Trong những trường hợp như vậy, các cơ quan chính quyền thường không cung cấp bảo vệ đầy đủ cho họ và công việc của họ chống lại các lực lượng xã hội đe dọa.

Ở nhiều nơi trên thế giới, vai trò truyền thống của phụ nữ được coi là hòa nhập vào văn hóa của xã hội. Điều này có thể gây ra đặc biệt khó khăn cho nữ bảo vệ nhân quyền trong việc đặt vấn đề và phản đối các khía cạnh của truyền thống và văn hóa khi họ vi phạm nhân quyền. Cắt xén bộ phận sinh dục nữ là một ví dụ điển hình về thực trạng như vậy, mặc dù có rất nhiều thứ khác.

Tương tự như vậy, nhiều phụ nữ được nhận thức bởi các cộng đồng của họ như là phần mở rộng của bản thân cộng đồng. Nếu một nữ bảo vệ nhân quyền là nạn nhân bị hãm hiếp bởi vì các công việc về quyền con người của cô, cô ấy có thể bị cho là cô đã mang sự xấu hổ về gia đình và cả cộng đồng rộng lớn. Là một người bảo vệ nhân quyền, cô phải mang gánh nặng không chỉ của các chấn thương của vụ hãm hiếp, mà còn của các khái niệm trong cộng đồng của mình rằng, thông qua công việc nhân quyền của cô, cô đã mang sự xấu hổ cho người xung quanh cô. Ngay cả khi không có hãm hiếp hoặc tấn công khác xảy ra, những phụ nữ chọn lựa để thành người bảo vệ nhân quyền thường phải đối mặt với sự giận dữ của gia đình và cộng đồng, xem họ như đang làm ảnh hưởng đến cả danh dự và văn hóa. Những áp lực để ngăn chặn công việc về quyền con người có thể rất mạnh.

Nữ bảo vệ nhân quyền có trách nhiệm hằng ngày chăm sóc trẻ nhỏ hoặc cha mẹ già thường thấy rất khó khăn để tiếp tục công việc về quyền con người của họ vì biết rằng bắt bớ và giam giữ sẽ ngăn không cho họ hoàn thành vai trò đó trong gia đình.

Mặc dù điều này vẫn còn là một mối quan tâm cho nữ bảo vệ nhân quyền trên toàn thế giới, người đàn ông đang ngày càng chia sẻ trách nhiệm cho sự chăm sóc người phụ thuộc. Tuy nhiên, phụ nữ cũng đã sử dụng vai trò này để tăng cường công việc của họ như là những người bảo vệ nhân quyền, ví dụ như các bà mẹ của những người bị mất tích đã hình thành các tổ chức nhân quyền. Thực tế rằng họ là các bà mẹ của các nạn nhân của vi phạm nhân quyền đã cung cấp một điểm tập hợp rất mạnh mẽ và công cụ tuyên truyền cho người bảo vệ nhân quyền.

Sự phức tạp ảnh hưởng đến vấn đề cụ thể quyền con người đôi khi có thể gây ra áp lực khác thường lên nữ bảo vệ nhân quyền. Trong nhiều nền văn hóa, sự đòi hỏi phụ nữ phải phục tùng những người đàn ông ở nơi công cộng có thể là một trở ngại cho hành động công khai đặt vấn đđối với những người đàn ông vi phạm nhân quyền. Tương tự như vậy, diễn giải một số giáo lý tôn giáo thường được sử dụng để xác định pháp luật hoặc các hoạt động có ảnh hưởng lớn tới quyền con người. Nữ bảo vệ nhân người muốn chất vấn pháp luật hay các hoạt động như vậy và hệ lụy tiêu cực cho nhân quyền thường bị ngăn cản đđược chấp nhận như là một uy quyền có đđiều kiện để giải thích các kinh điển tôn giáo đó, bởi vì họ là phụ nữ. Vì vậy những nữ bảo vệ nhân quyền đã không bình đẵng với nam giới khi bị loại ra khỏi việc giải quyết các luận cứ ban đầu được sử dụng để chống lại họ. Một lần nữa, họ cũng có thể phải đối mặt với sự thù địch từ cộng đồng mà họ phải tiếp tục sống.

Những thách thức mà nữ bảo vệ nhân quyền phải đối mặt đôi khi đòi hỏi một phân tích rộng hơn và hiểu biết hơn so với những thách thức của giới đàn ông.

C. Thủ phạm của hành vi vi phạm đối với người bảo vệ nhân quyền

Các cơ quan chính quyền là thủ phạm thường gặp nhất của các hành vi vi phạm đối với những người bảo vệ nhân quyền, nhưng đồng thời cũng chịu trách nhiệm chính đđảm bảo sự bảo vệ họ. Tuy nhiên, một loạt các tác nhân ngoài khu vực nhà nước cũng dính vào, hoặc liên quan đến hành động chống lại những người bảo vệ nhân quyền và điều quan trọng là cần lưu ý trách nhiệm của họ.

1. Cơ quan chính quyền
Không thể liệt kê đầy đủ các cơ quan chính quyền đã liên quan đến hành vi vi phạm đối với những người bảo vệ nhân quyền. Tuy nhiên rất hữu ích khi lưu ý một số ví dụ và nhấn mạnh rằng, thường xuyên nhất, mỗi khi một cơ quan là thủ phạm thì sau đó các cơ quan chính quyền khác thường có dính líu bởi vì họ đã không ngăn cản hoặc phản ứng với những hành vi đó. Các cơ quan chính quyền, trong bối cảnh này, nên được hiểu là bao gồm nhiều loại cơ quan hành chính cũng như chính trị, và đặc biệt bao gồm các cơ quan cấp địa phương cũng như cấp quốc gia.
Cảnh sát và các lực lượng an ninh khác là những thủ phạm dễ thấy nhất qua hành vi như bắt bớ bừa bãi, khám xét bất hợp pháp và bạo hành. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền khác thường cũng liên quan. Ví dụ, nếu một vụ bắt giữ vi phạm các tiêu chuẩn quốc tế được thực hiện bởi lệnh bắt giữ của chính quyền địa phương và dẫn đến truy tố và kết án, thì cảnh sát, các thành viên của bộ máy tư pháp và luật sư Nhà nước tất cả có thể là đồng lõa vi phạm quyền con người của người bảo vệ nhân quyền.

Một khi pháp luật hoặc các quy định hành chính áp dụng không phù hợp để ngăn chặn những người bảo vệ nhân quyền đăng ký các tổ chức phi chính phủ hoặc gặp gỡ nhau, các nhà chức trách dân phụ trách việc áp dụng những quy tắc này gánh trách nhiệm chính. Rất phổ biến trong số cơ quan nhà nước áp đặt một cách sai trái lên người bảo vệ nhân quyền sự bất hợp pháp về mặt hành chính và sử dụng điều này như là cơ sở cho việc giam giữ tiếp theo, bắt giữ và kết án.

Không dễ dàng để xác định một cách chắc chắn các thủ phạm của một số hành vi chống lại người bảo vệ nhân quyền, chẳng hạn như các mối đe dọa giết chết nặc danh . Trong những tình huống này, cũng như với tất cả các hành vi vi phạm, các cơ quan Nhà nước có liên quan chịu trách nhiệm điều tra các hành vi, cung cấp bảo vệ tạm thời, nếu cần thiết và truy tố những người chịu trách nhiệm. Trường hợp cơ quan Nhà nước không thực hiện trách nhiệm này họ đang không làm tròn các nghĩa vụ của mình. Trong thực tế, cảnh sát ở một số quốc gia đôi khi từ chối hành động, hoặc thậm chí đăng ký, khiếu nại về các cuộc tấn công chống lại những người bảo vệ nhân quyền và tòa án thì miễn cưỡng đưa các thủ phạm ra xét xử. Không hành động bởi các cơ quan có thẩm quyền đôi khi cho phép hành vi vi phạm tiếp tục hay lặp lại và xấu đi, với các mối đe dọa giết chết liên tiếp, cuối cùng dẫn đến các vụ giết người bảo vệ nhân quyền thực sự.

2. Tác nhân ngoài nhà nước
Nhóm tác nhân “ngoài nhà nước là rất rộng và bao trùm cả các nhóm vũ trang, các doanh nghiệp như các công ty xuyên quốc gia, và các cá nhân. Trong khi Nhà nước chịu trách nhiệm chính để bảo vệ người bảo vệ nhân quyền, thì điều cần thiết để xác nhận là tác nhân ngoài nhà nước có liên quan đến các hành vi chống lại người bảo vệ nhân quyền, kể cả có và không có nhà nước đồng lõa.

Các nhóm vũ trang đã giết người, bắt cóc và đe dọa giết chết, trong số các hành vi khác, như chiến thuật thường trực để bịt miệng những người bảo vệ nhân quyền. Một số trong các nhóm này xung đột với các chính phủ, ví dụ như là một lực lượng bán quân sự, trong khi những nhóm khác thì cuộc xung đột với Nhà nước như các nhóm vũ trang chống đối.

Lợi ích kinh tế tư nhân như các tập đoàn xuyên quốc gia hoặc những đại điền chủ đã cho thấy có tác động ngày càng lớn đến quyền kinh tế và xã hội của mọi người trong cộng đồng mà họ sống. Ở một số nước, nơi mà những người bảo vệ nhân quyền đã tiến hành biểu tình ôn hòa chống lại tác động tiêu cực về nhân quyền của các tập đoàn xuyên quốc gia, lực lượng an ninh đã sử dụng bạo lực đđàn áp các cuộc biểu tình. Trong các trường hợp khác, các nhà chức trách đã không can thiệp khi các cá nhân không xác định được danh tách, bị nghi ngờ đóng vai trò đại diện cho lợi ích kinh tế tư nhân, đã tấn công những người bảo vệ nhân quyền. Đặc sứ của Tổng thư ký về người bảo vệ nhân quyền đã lưu ý rằng, trong một số các cuộc tấn công, sự đồng lõa và trách nhiệm của các đơn vị khu vực tư nhân là rõ ràng và phải được xác định.

Ví dụ khác về hành vi xâm phạm ngoài nhà nước, người bảo vệ nhân quyền là nạn nhân của vụ giết người, đánh đập và xúi giục đe dọa của các tổ chức tôn giáo, cộng đồng hoặc các trưởng lão bộ tộc, và thậm chí cả các thành viên gia đình riêng của họ, trong phản ứng trực tiếp đến công việc nhân quyền của họ.

3. Vai trò tích cực của các tác nhân nhà nước và ngoài nhà nước
Trong nhiều quốc gia, nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền con người nói chung là thực hiện có hiệu quả, và trong hầu hết mỗi quốc gia, ít nhất, các cá nhân cũng sống trong an toàn và chính quyền dân sự làm việc tích cực để bảo vệ quyền con người và bản thân họ thực hiện đầy đủ vai trò của người bảo vệ nhân quyền. Trong một số trường hợp, chính các nhân viên cảnh sát, thẩm phán, các công chức của bộ máy hành chánh nhà nước và các chính trị gia cũng đã đẩy bản thân họ trước nguy cơ lớn vì bảo vệ các quyền con người của người khác, vì hỗ trợ cho công lý và chấm dứt tham nhũng.

Tương tự như vậy, mặc dù một số tác nhân tư nhân là những thủ phạm của hành vi vi phạm đối với những người bảo vệ nhân quyền, thì có những người khác cung cấp hỗ trợ cơ bản trong việc giải quyết các hành vi đó. Các tập đoàn xuyên quốc gia có thể là một lực lượng mạnh mẽ trong việc đảm bảo các quyền được tôn trọng, và một số công ty đã áp dụng các chính sách việc làm tốt và góp phần năng động hóa kinh tế và xã hội cho các cộng đồng được thành lập. Các nhà lãnh đạo tôn giáo thường đứng ở vị trí hàng đầu trong hành động bảo vệ quyền con người và bảo vệ nhân quyền cho chính mình.

Trong vài trường hợp, có thể không có tách biệt rõ ràng giữa các tác nhân ngoài nhà nước tích cực và tiêu cực. Lợi ích kinh doanh có thể đóng góp tích cực cho một số quyền con người, nhưng có một tác động tiêu cực đối với những người khác. Do đó, cốt lõi là xem xét các việc kinh doanh và các tác nhân khác có đáp ứng với những tác động tiêu cực về nhân quyền do các hoạt động của họ mà người bảo vệ nhân quyền đã nêu ra.

(Source: Fact Sheet No.29, Ch. 2, the Office of the UN High Commissioner for Human Rights)







1 comment:

View My Stats