Người
ta đã nói nhiều đến sự khác biệt giữa phương Đông và phương Tây, riêng tôi, tôi
thấy một sự khác biệt quan trọng nhất, đó là trong khi ở phương Tây, tư duy phản
biện chiếm ưu thế, thỉ ở phương Đông, chủ nghĩa tuân thủ chiếm vị trí áp đảo.
Quan
sát thực tế lịch sử văn hoá của thế giới, ta thấy: Hệ thống tín ngưỡng tôn giáo
của phương Đông và phương Tây có những sự khác nhau rất cơ bản. Cái tư tưởng
tôn trọng gốc gác nơi đất mẹ thiên nhiên của người phương Đông đã dẫn đến một ý
thức thuần phục gần như tuyệt đối đối với một tôn ti trật tự đã được thiết lập
trong tôn giáo. Đạo Phật của phương Đông về cơ bản là nhất quán, thông suốt, hầu
như không có những “kẻ phản nghịch”. Trong khi đó ở phương Tây, đạo Cơ Đốc luôn
được sửa đổi, cải cách, thậm chí ly giáo. Ngay từ khi Cơ Đốc giáo mới ra đời,
Chúa Jesus đã có kẻ tông đồ thứ 13 là Juda, được mệnh danh là kẻ “phản nghịch”
đầu tiên. Trong lịch sử Cơ Đốc giáo, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vụ ly
giáo: vụ ly giáo Đông - Tây năm 867 giữa giáo trưởng thành Constantinople
Photius với giáo hoàng Nicolas I ở Roma; vụ ly giáo Đông - Tây năm 1054 giữa
giáo trưởng thành Constantinople Kerularios với giáo hoàng Leo IX; và đặc biệt
là vụ ly giáo lớn ở châu Âu diễn ra từ 1378 đến 1417 giữa ba chế độ giáo hoàng:
chế độ giáo hoàng ở Roma, chế độ giáo hoàng ở Avignon (Pháp) và chế độ giáo
hoàng ở Pisa (Italia). Và đặc biệt là cuộc cải cách đạo Cơ Đốc của nhà thần học
người Đức Martin Luther đầu thế kỷ XVI, dẫn đến sự ra đời của đạo Tin Lành. Tư
tưởng phản nghịch thể hiện phổ biến trong Cơ Đốc giáo đến nỗi Nhà Thờ đã phải lập
ra một toà án để xử tội dị giáo.
Có
thể cái tư tưởng “phản nghịch” của người phương Tây là có xuất xứ từ truyền thống
văn hoá thần thoại xa xưa. Hệ thống thần thoại Hy Lạp là một hệ thống tranh
giành quyền lực. Thần Cronos sẵn sàng giết cha là thần Uranos để chiếm ngôi
chúa tể. Đến lượt mình, thần Dớt [Zeus] lại làm một cuộc “cách mạng” lật đổ cha
mình để nắm quyền trị vì thế giới. Trong một loạt những cuộc giao tranh tiếp
theo giữa các phe phái trong các vị thần, như giữa các vị thần ở núi Olympos với
các vị thần khổng lồ Gigantes, thì loài người, đại diện là dũng sỹ Heracles,
cũng tham gia giúp các vị thần Olympos đánh lại các vị thần Gigantes. Trong thần
thoại Hy Lạp, điển hình của thần thoại văn minh đô thị, thần thánh và người trần
sống lẫn với nhau, yêu nhau, kết hôn với nhau và cạnh tranh lẫn nhau, hầu như
không có sự phân biệt và không có một tôn ty trật tự tuyệt đối. Nhiều người trần
sẵn sàng đấu võ và thi tài với thần linh: Tráng sỹ Heracles giết chết nhiều thần
khổng lồ Gigantes, trong đó có thần Antaios nổi tiếng [tức thần “Ăngtê” gọi
theo tiếng Pháp]; tráng sỹ Diomedes đánh bị thương thần chiến tranh Ares; cô thợ
dệt Arakhne dám thi tài dệt vải với nữ thần Athena; cô gái Acalanthis và chàng
trai Thamyras dám thi hát với các nữ thần nghệ thuật Musa; nàng Casiope xinh đẹp
và tự tin dám thi sắc đẹp với các nữ thần biển Neraydes, v.v... Trong khi đó
trong thần thoại phương Đông, thế lực thần thánh được phát huy tuyệt đối quyền
hành, tôn ty trật tự được tuân thủ nghiêm ngặt. Kẻ phản nghịch duy nhất là Tôn
Ngộ Không thì chỉ múa may trong thế giới quỷ sứ chứ không đụng chạm được đến
quyền lực thánh thần.
Trong
giáo dục, người phương Đông đề cao tư tưởng “tôn sư trọng đạo”. Người thầy có một
vị thế quan trọng đến mức thiêng liêng. Người ta chỉ có thể lập ra một tư tưởng,
một lý thuyết mới, chứ ít khi cải cách lý thuyết của thầy. Lưu Hiệp (Trung Quốc,
465-520) quan niệm rằng “đạo” có nguồn gốc trong tự nhiên, nhưng phải nhờ có
các thánh nhân mới trở thành “đạo” của con người. Nói một cách khác, thánh nhân
là những người làm ra đạo, được đúc kết lại thành các nguyên lý và được ghi lại
thành các sách kinh. Như thế, trong tư duy mỹ học truyền thống của phương Đông,
chức năng chủ yếu của văn là “tải đạo” chứ không phải là sáng tạo cái đẹp. Ngay
cả đến thời hiện đại, khi Đặng Tiểu Bình thực hiện cải cách Trung Quốc, thì tư
tưởng Mao Trạch Đông vẫn được tôn sùng. Trong khi đó ở phương Tây, khái niệm
người thầy không có ý nghĩa “thần thánh” như ở phương Đông. Ngay từ thời xa
xưa, Socrate đã không dạy học trò bằng cách áp đặt quan điểm của mình, mà ông
đưa ra các câu hỏi để học sinh chủ động trả lời. Aristote, bằng các công trình
học thuật của mình, đã dám phản bác lại quan điểm duy tâm của thầy học của mình
là Platon. Đến thời cận-hiện đại, K. Jung, học trò của Freud, đã cải cách lý
thuyết tâm phân học của thầy mình, dẫn đến hai người không còn muốn nhìn mặt
nhau. Các Mác, thời trẻ là học trò của Hegel, đã kiên quyết “lật ngược” phép biện
chứng duy tâm của ông này để lập ra một học thuyết mới. Lênin cũng sửa đổi học
thuyết Mác về cách mạng vô sản để thực hiện cuộc Cách mạng Tháng 10. (Mác chủ
trương rằng cách mạng vô sản chỉ có thể thành công khi nó diễn ra trên toàn thế
giới. Lênin sửa lại rằng nó có thể thành công trong khâu yếu nhất của chủ nghĩa
tư bản.). Và cuối cùng, học thuyết "đấu tranh giai cấp" cũng đã phải
nhường chỗ cho "đấu tranh dân chủ".
Cho
đến tận ngày nay, phương Đông vẫn chịu sự chi phối mạnh mẽ của chủ nghĩa tuân
thủ. Các ý kiến của “thánh nhân” vẫn luôn được coi là “đạo” bất biến không phải
tranh cãi, kể cả những ý kiến đã bị phương Tây hiện đại bác bỏ. Kể cả khi một số
nước phương Đông có cải tiến và cải cách kinh tế để phát triển đất nước, thì họ
vẫn ít chú ý đến công cuộc phát triển con người. Đây là một trong những nguyên
nhân quan trọng lý giải cho tình trạng chậm phát triển của MỘT SỐ nước phương
Đông.
(NVD)
No comments:
Post a Comment