Cuộc
trốn chạy từ miền Bắc Cộng Sản vào miền Nam Tự Do 1954 (1)
Huy Vũ -
Saigon Nhỏ
16
tháng 10, 2024
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2024/10/Tau-ha-mom-US-Navy-Wikipedia.org-1.jpg
Khoảng
một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo di cư
đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu do Pháp
và Mỹ tổ chức. (Hình: US Navy/Wikipedia.org)
“Một
ngày năm bốn cha bỏ quê xa
Nơi
chôn nhau cắt rốn đã bao nhiêu đời
Một
ngày năm bốn cha bỏ phương trời
Miền
Bắc âm u mưa phùn rơi…”
Tiếng
hát Elvis Phương, bài “1954 Cha Bỏ Quê – 1975 Con Bỏ Nước” của Phạm Duy từ chiếc
điện thoại thông minh của tôi phát ra, làm tôi bồi hồi nhớ lại cuộc trốn chạy từ
Miền Bắc Cộng Sản vào Miền Nam Tự Do của gia đình tôi vào năm 1954.
Phần
lớn những người miền Bắc tham dự vào cuộc trốn chạy này là những người đang sống
ở những vùng do quân đội Pháp chiếm đóng hay trong vùng thuộc chính quyền Quốc
Gia Việt Nam kiểm soát. Vì thế, họ ra đi giữa ban ngày ban mặt, tuy không thể
mang theo nhà cửa ruộng vườn, nhưng có thể mang theo tất cả đồ tế nhuyễn của
riêng tây. Còn gia đình tôi lúc ấy, đang sống trong một ngôi làng trong tỉnh
Phú Thọ thuộc vùng kiểm soát của ông Hồ và đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) từ
tháng 8/1945. Nơi đây vào cuối năm 1954 cũng là nơi ông Hồ và đảng CSVN cho thực
thi giai đoạn I của cuộc Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ). Trong cuộc CCRĐ này,
gia đình tôi lại “hân hạnh” được “tấn phong” là địa chủ, đối tượng chính của cuộc
CCRĐ. Vì thế nên dân quân du kích và bần cố nông canh chừng và theo dõi ngày
đêm rất cẩn mật. Do đó việc trốn chạy ra khỏi làng của gia đình tôi có rất
nhiều khó khăn và nguy hiểm.
Tuy
biết rõ như vậy, nhưng gia đình tôi vẫn quyết định ra đi, vì biết rằng, nếu cứ
khư khư ôm lấy “nơi chôn nhau cắt rốn đã bao nhiêu đời” để tiếp tục hô khẩu hiệu
“Hồ Chí Minh Muôn Năm” và “Đảng Cộng Sản hay đảng Lao Động hay đảng Cộng Sản Việt
Nam Muôn Năm,” chẳng khác nào như người tử tù chờ đợi ngày giờ đưa đầu vào máy
chém. Tính đến lúc phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả của ông cha ra đi, gia
đình tôi “hân hạnh” đã được sống với Bác và Đảng gần 9 năm. Trong thời
gian ấy, làng Bản Nguyên, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ của tôi là vùng tiền tuyến
trong cuộc chiến tranh Việt-Pháp, vì nằm đối diện với một dãy đồn bót của quân
đội viễn chinh Pháp ở phía bên kia sông Hồng, như đồn Trung Hà, đồn Hưng Hóa,
và đồn Gềnh… Từ những đồn bót này quân Pháp vẫn thường xuyên hành quân vượt
sông sang đánh phá làng tôi và các làng khác. Dù gian khổ tột cùng, dù có thể
chết bất cứ lúc nào bởi các loại súng đạn của quân đội Pháp, song gia đình tôi
và dân làng tôi vẫn một lòng tin tưởng ông Hồ và chính phủ của ông thực tâm chống
Pháp để giành độc lập và tự do cho dân tộc. Nhưng cho đến lúc được Trung
Cộng và Nga Xô chi viện dồi dào, và khi biết rõ là sẽ giành được thắng lợi
trong tương lai rất gần, ông Hồ và các đồng chí trong đảng Cộng Sản của ông ta
bắt đầu hiện rõ nguyên hình là tay sai đắc lực của Cộng Sản Quốc Tế. Họ
vâng theo lệnh của quan thầy Trung Cộng và Nga Xô, thực thi ngay cuộc Cách Mạng
Ruộng Đất ở Việt Nam để “đào tận gốc, trốc tận rễ” tầng lớp “trí, phú, địa,
hào.” Trong cuộc cách mạng này gia đình tôi lại là đối tượng chính, vì thế nếu
không sớm tìm đường trốn chạy thì chắc chắn sẽ bị “đào tận gốc trốc tận rễ.”
Vào
những ngày cuối năm 1954 gia đình tôi đã quyết định, nếu muốn sống còn thì
không còn con đường nào khác hơn là phải trốn chạy vào Miền Nam Tự Do. Vì thế,
gia đình tôi lợi dụng ngay thời gian cận Tết Nguyên Đán để ra đi, vì lúc ấy, những
chú dân quân du kích và các anh chị bần cố nông được bố trí theo dõi và bám sát
gia đình tôi đã có đôi chút lơ là. Cuộc trốn chạy của gia đình vào thời
gian này được chia thành ba giai đoạn:
Giai
đoạn I từ làng tôi về Hà Nội
Chúng
tôi đã rời nhà vào đêm 27 rạng 28 tháng Chạp năm Giáp Ngọ tức đêm 19 rạng 20
tháng 2/1955. Nghĩa là chỉ còn có bốn, năm chục giờ nữa là đã bước sang năm mới
Ất Mùi. Để có thể tránh được sự dòm ngó của lối xóm và sự canh chừng của dân
quân du kích, gia đình tôi gồm 6 người được chia làm 3 toán khác nhau. Anh chị
tôi và đứa em gái ra đi từ căn nhà trại ở cuối làng vào lúc 2 giờ sáng.
Tôi và mẹ tôi ra đi từ ngôi nhà trong làng vào hồi 2 giờ 30 sáng. Còn bố tôi
cũng ra đi từ ngôi nhà trong làng vào lúc 3 giờ sáng. Điểm đến của cả nhóm là
nhà bà chị ruột của bố tôi, số 70 Cầu Gỗ, Hà Nội.
Vì
mẹ tôi bị chứng tê thấp hành hạ đã mấy năm nay, và gia đình tôi bị bao vây cô lập
trong một thời gian khá dài, nên không còn tiền bạc để thuốc thang chữa trị, do
đó bà đi lại rất khó khăn. Vào thời gian này tôi đã 19 tuổi nên được coi là người
trẻ và khoẻ nhất trong gia đình, nên được phân công “hộ tống” bà, và trong trường
hợp cần thiết, tôi sẽ đóng vai “Lục Vân Tiên” cõng mẹ trên đường trốn chạy.
Tôi
và mẹ tôi rời nhà vào lúc 2 giờ 30 sáng, còn bố tôi ra đi sau đó nửa tiếng đồng
hồ. Tôi dẫn mẹ tôi đi theo ngõ sau để ra cánh đồng sau làng, rồi từ đó đi men
theo những bờ ruộng để tới cánh đồng chiêm làng tôi. Từ cánh đồng này chúng tôi
sẽ đi xuyên qua cánh đồng chiêm làng Thành Chu và làng Quỳnh Lâm để tới bến đò ở
đầu làng Vĩnh Lại, rồi đi đò qua sông Hồng để đến bến xe đò Trung Hà đi Sơn
Tây.
Tôi
đi trước, mẹ tôi theo sau, cách nhau một khoảng độ chừng 30 hay 40m. Sở dĩ phải
giữ khoảng cách này, là vì lỡ ra tôi có gặp dân quân du kích ở phía trước, tôi
sẽ nói lớn, để mẹ tôi ở phía sau tìm cách lẩn tránh. Nếu dân quân du kích gặp mẹ
con tôi đi với nhau trong đêm tối, thì họ sẽ nghĩ ngay là chúng tôi đang trên
đường trốn chạy ra khỏi làng và sẽ bắt chúng tôi ngay. Tôi đi rất chậm để mẹ
tôi có thể bắt kịp và sau mỗi quãng đường ngắn, tôi lại ngồi xuống, nhìn về sau
để xem mẹ tôi có theo kịp hay không? Sau nhiều lần làm như thế, tôi đều thấy
bóng đen chậm chạp của mẹ tôi nhô lên khỏi đường chân trời lấp lánh ánh sao
đêm, nên tôi tin rằng mẹ tôi đã bắt kịp không mấy khó khăn. Cũng vì tin như thế
nên nhịp độ đứng lên và ngồi xuống để nhìn về phía sau của tôi càng về sau càng
thưa dần.
Khi
đã đi xuyên qua hết cánh đồng chiêm làng tôi, và bắt đầu bước vào cánh đồng
chiêm làng Thành Chu, một lần nữa tôi lại ngồi xuống để nghe ngóng xem có người
lạ ở phía trước không? Khi không thấy ai ở phía trước cả, tôi mới nhìn về phía
sau để tìm bóng dáng của mẹ tôi, nhưng hoàn toàn không thấy bà đâu cả. Không
dám cất tiếng gọi, vì e ngại giữa cánh đồng trong đêm khuya thanh vắng, một tiếng
gọi nhỏ, cũng có thể vang vọng xa cả mấy cây số, nên tôi đi ngược trở lại
về phía sau một đoạn khá dài để tìm kiếm, nhưng vẫn không thấy mẹ tôi đâu cả.
Lúc đầu tôi nghĩ rằng, có lẽ vì đã đi được một quãng khá dài trên đường ruộng gập
ghềnh, do đó chứng đau nhức của bà lại làm khó dễ chi đây, nên tôi tìm kiếm
loanh quanh thêm năm mười phút nữa nhưng vẫn không thấy bóng dáng mẹ tôi cả.
Lòng
tràn ngập lo âu, song tôi vẫn tin rằng, có lẽ vì bờ ruộng, lúc thẳng, lúc cong,
lúc quẹo trái, lúc quẹo phải, và mẹ tôi tuy mang tiếng là địa chủ, nhưng thực
ra đây là lần đầu tiên bà bước chân tới cánh đồng chiêm của làng tôi, nên mới
đi lạc quanh quẩn đâu đó thôi. Lòng vòng tìm kiếm thêm một hồi khá lâu nữa mà vẫn
không thấy bà, tôi đành phải tiếp tục cuộc hành trình với hy vọng là sẽ gặp bà ở
bến đò ngang qua Trung Hà tại đầu làng Vĩnh Lại, vì trước khi rời nhà ra đi,
tôi cũng đã dặn phòng hờ rằng, trong trường hợp bị thất lạc thì bà cứ hỏi thăm
đường đến bến đò này.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2024/10/Tau-ha-mom-US-Navy-Wikipedia.org_.jpg
Khoảng
một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo di cư
đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu do Pháp
và Mỹ tổ chức. (Hình: US Navy/Wikipedia.org)
Trên
đường tới bến đò Vĩnh Lại, tôi bắt đầu đi chậm lại, và mở rộng hướng đi lúc
sang trái, lúc sang phải với hy vọng tìm được mẹ tôi, nhưng sau cả tiếng
đồng hồ mà vẫn không gặp được mẹ tôi. Khi trời đã lờ mờ sáng, nhìn lại phía
sau, tôi thấy một bóng đen đang đi hướng về bến đò làng Vĩnh lại, nên tôi đã vội
mừng thầm, vì nghĩ đó có thể là mẹ tôi. Tôi đổi hướng đi để đón đầu bóng đen ấy,
nhưng khi đến gần hơn, tôi nhận thấy bóng đen ấy đi đứng trên những bờ ruộng gập
ghềnh rất vững vàng, chứng tỏ là rất quen thuộc với đồng ruộng, nên không thể
là mẹ tôi được. Nỗi mừng vừa chợt đến, rồi lại chợt đi và nỗi lo âu lại tràn ngập
lòng tôi vì tôi nghĩ rằng có lẽ là việc trốn chạy của gia đình tôi đã bị đổ bể,
và rất có thể bóng đen đang di chuyển ấy là một trong những tên dân quân du
kích được phái đi tìm kiếm chúng tôi. Vì nghĩ như thế, nên tôi bèn tìm một
bờ ruộng cao gần đấy để ẩn mình, và cũng là để chờ xem cho rõ bóng đen ấy là
ai? Vào lúc bóng đen đi ngang qua, tôi mới nhận ra bóng đen ấy là bố tôi.
Tôi vội vàng bám theo ông và cho ông hay là mẹ tôi đã đi lạc. Dù lúc ấy trời
tuy chưa sáng rõ lắm, nhưng tôi cũng đã cảm nhận được nét lo âu thoáng hiện
trên mặt ông, nên tôi vội vàng nhắc tới lời bàn định trước khi ra đi, là mạnh
ai nấy đi để tìm về điểm hẹn, dù có bị lạc nhau, và tôi cũng nói thêm để ông
yên lòng là tôi sẽ nấn ná ở lại để tìm kiếm mẹ tôi.
Đã
hơn 9 giờ sáng, cánh đồng làng Vĩnh Lại vẫn vắng lặng không một bóng người, ngoại
trừ một vài con trâu đang cặm cụi gặm cỏ trên những thửa ruộng gần bờ đê. Có lẽ
người dân trong làng này, dù thiếu thốn và vất vả quanh năm, song họ vẫn cố gắng
xoay xở, đắp đỗi để được nghỉ ngơi vào dịp Tết. Nhìn xuôi về phía cánh đồng sau
làng Trình Xá để tìm kiếm bóng hình của mẹ tôi nhưng chẳng thấy gì cả. Nhìn ngược
lại cánh đồng làng Quỳnh Lâm, cũng chẳng thấy bóng dáng nào để có thể nghĩ là mẹ
tôi. Nhìn về cánh đồng chiêm sau làng Vĩnh Lại, chỉ thấy một dải xanh thẫm trải
dài bao quanh làng Thạch Cáp. Cả ba hướng đều thất vọng cả, nên tôi chỉ còn bám
víu vào một tia hy vọng nhỏ nhoi là, những người khuất mặt, khuất mày và linh
thiêng trong gia đình tôi sẽ dẫn lối chỉ đường cho mẹ tôi tới được bến đò ngang
Vĩnh Lại.
Tôi
tiếp tục đi về hướng bến đò, tuy chẳng còn bao xa nữa, song với tâm tư đầy chán
nản và thất vọng. Khi tới bến đò, nhìn đồng hồ trên tay đã chỉ 10 giờ, mà cũng
chẳng thấy mẹ tôi đâu. Hỏi thăm ông lái đò duy nhất ở bến đò này, thì được biết
là, từ chuyến đò đầu tiên sáng nay cho tới lúc ấy, chưa có một bà già nào giống
như tôi mô tả qua đò cả. Đã tám tiếng đồng hồ trôi qua, mà mẹ tôi vẫn chưa đến
được bến đò chỉ cách nhà tôi khoảng 5 cây số.
Bình
thường chúng tôi đi theo con đê để đến bến đò này chỉ mất hơn một tiếng là
cùng. Tôi tin rằng trễ lắm là 8 giờ sáng, bọn bần cố nông có nhiệm vụ theo dõi
gia đình tôi đã phát giác sự vắng mặt bất thường của gia đình tôi rồi, nên rất
có thể, một trong những toán du kích và bần cố nông được cử đi lùng kiếm chúng
tôi cũng đang trên đường đi đến bến đò này? Tôi cũng nghĩ là rất có thể mẹ tôi
đã bị chúng tóm được ở một nơi nào đó rồi, và chúng đang mắng chửi và đánh đập
bà trên đường dẫn giải về làng. Vì suy diễn như thế đã khiến tôi phân vân không
biết có nên tiếp tục đi Hà Nội nữa không, nếu không kiếm được mẹ.
(còn
tiếp)
*****
Cuộc
trốn chạy từ miền Bắc Cộng Sản vào miền Nam Tự Do 1954 (2)
Huy Vũ -
Saigon Nhỏ
17
tháng 10, 2024
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2024/10/Mot_nguoi_di_cu_Thien_Chua_giao_1954-1.jpg
Một
người Thiên Chúa giáo di cư từ miền Bắc nhận đồ dùng do Mỹ phân phát. (Hình: US
Govt/Wikipedia.org)
Bố
tôi, vợ chồng người anh và đứa em gái chắc đã đi thoát được cả rồi, và có lẽ
đang ngồi trong những chiếc xe hàng bon bon trên đường Trung Hà – Sơn Tây hay
Sơn Tây – Hà Nội. Mừng cho họ bao nhiêu, tôi lại càng lo lắng cho số phận hẩm
hiu của mẹ tôi bấy nhiêu. Mẹ tôi còn một người con gái nuôi, chị Vũ Thị Xuyến,
lúc ấy đã lấy chồng và gia đình chồng chị là trung nông. Nếu chẳng may, mẹ tôi
bị bắt về làng, chắc chắn chị Xuyến dù có thương mẹ nuôi đến đâu đi nữa, cũng
không dám đón bà về sống với chị.
Trong
chiến dịch CCRĐ ở giai đoạn I vừa qua ở làng tôi, mặc dù với sức ép của cán bộ
đội CCRĐ, của chính quyền, của nông hội, của gia đình chồng, chị đã can đảm
không mở miệng tố khổ bố mẹ nuôi theo sự xúi dục của cán bộ đội cách, đã bóc lột
chị đến tận xương tận tủy là quá đủ rồi. Vào thời gian này, sức khoẻ của
mẹ tôi đã suy sụp quá nhiều rồi, nên nếu bà phải trở về làng một mình chắc chắn
mẹ tôi không thể sống được, vì bệnh tật và đau yếu, nên ngay cả công việc vệ
sinh và nấu ăn hàng ngày cho mình, chưa chắc bà có thể tự lo liệu được, còn nói
chi đến việc chạy vạy kiếm dăm ba quả chuối xanh, vài ba củ khoai lang, hay năm
ba khúc khoai mì để sống cho qua ngày giữa một bầy bần cố nông thù nghịch.
Tôi
đi đi lại lại rất nhiều lần trên lối đi, từ bờ đê xuống bến đò và từ bên đò ngược
lên bờ đê, để tìm kiếm và đợi chờ mẹ tôi vì tôi vẫn hy vọng với một phép mầu
nhiệm nào đó sẽ đưa mẹ tôi đến bến đò này. Tôi cũng tự trách mình là người đã
gây ra việc đi lạc của mẹ tôi. Giả sử, nếu tôi đi sát với mẹ tôi hơn nữa trên
cánh đồng chiêm sau làng, thì đâu đến nỗi mẹ con phải lạc nhau. Trong lúc đi lại
và suy nghĩ lung tung, tôi đã có được một quyết định dứt khoát là, tôi sẽ chờ mẹ
tôi cho tới 5 giờ chiều tại bến đò này; nếu không thấy bà, thì coi như bà đã bị
bắt, và tôi sẽ trở về nhà để lo liệu cho mẹ tôi.
Khoảng
11 giờ, lại thêm một lần nữa, tôi từ bến đò đi ngược lên con đê, rẽ phải, rồi
đi về phía làng Trình Xá, vừa qua khỏi khúc ngoẹo một chút, thì tôi thấy mẹ tôi
đang đứng nói chuyện với một cậu bé chăn trâu. Có lẽ là bà đang hỏi thăm đường
đến bến đò. Tôi mừng đến nỗi nước mắt tự động tràn ra khoé mắt. Mới chỉ xa cách
mẹ tôi có khoảng 8 tiếng đồng hồ, mà tôi tưởng chừng dài như một thế kỷ. Cố kìm
hãm xúc động và lấy lại vẻ tự nhiên, tôi đến gần bà, và giả bộ như không hề
quen biết, cất tiếng hỏi: “Bà cụ ơi! Chắc bà cũng định qua đò sang Trung
Hà phải không? Mau lên! Đò đang đợi khách đó!
Thấy
tôi bà rất mừng, nhưng không khỏi ngạc nhiên về câu hỏi như người xa lạ của
tôi, nhưng chỉ vài ba giây sau, vẻ ngạc nhiên của bà đã biến mất, có lẽ vì bà
đã nhớ đến lời căn dặn của chúng tôi trước khi ra đi, là trên đường trốn chạy
không được nhận nhau là người quen biết. Tôi quay lại bến đò và bà lững thững
đi theo tôi. Thêm bà nữa là đủ số khách tối thiểu mà ông lái đò mong đợi.
Khi con đò đưa chúng tôi qua sông Hồng vừa cặp bến Trung Hà, mẹ tôi lại một lần
nữa quên lời dặn dò trước khi ra đi, bà đã trả liền một lúc hai xuất tiền đò và
nói với ông lái đò rằng một cho bà và một cho con trai của bà là tôi. Cũng may
là trên đò chẳng có ai quen biết cả.
Khoảng
12 giờ trưa chúng tôi tới được bến xe Trung Hà – Sơn Tây. Chuyến thứ nhì và
cũng là chuyến chót trong ngày vẫn còn nằm tại bến đợi khách. Chiếc xe
đò, có lẽ trước đây là chiếc xe vận tải hàng hóa của tư nhân trong vùng kiểm
soát của quân đội Pháp, sau ngày “giải phóng” được “cải tiến” thành xe chở hành
khách. Phần thùng xe, cách biệt với buồng lái, trước đây là chỗ chất hàng hoá,
nay được sửa chữa lại đôi chút để đặt một số băng ghế dài bằng gỗ cho hành
khách ngồi. Tôi và mẹ tôi phải leo lên xe bằng chiếc thang cây di động đặt ở cuối
xe. Tuy đã có thêm khách là tôi và mẹ tôi cùng một vài người nữa, song vì chưa
đủ số hành khách tối thiểu mà chủ xe mong muốn, nên hành khách vẫn phải tiếp tục
chờ đợi.
Lên
xe, tìm được chỗ ngồi xong xuôi, tôi mới để ý đến những hành khách đang ngồi
trên xe. Nhìn vào góc trong cùng của thùng xe, tôi thấy có một người mang chiếc
áo lạnh nhà binh màu cứt ngựa, giống như chiếc áo của bố tôi. Nhìn kỹ hơn, tôi
nhận ra đúng là bố tôi thật. Có lẽ ông đã thấy chúng tôi khi vừa mới lên xe,
nhưng vì nhớ lời căn dặn lúc ra đi là không được nhận nhau nếu có gặp nhau trên
đường trốn chạy, nên ông đã ngồi yên và làm như không hề biết chúng tôi. Trong
lúc chờ xe khởi hành, tôi cảm thấy an tâm được phần nào, vì cuộc trốn chạy của
gia đình tôi như thế là đã ra khỏi vùng nguy hiểm, nơi có nhiều người quen biết,
và cũng là vùng mà bọn du kích và bần cố nông làng tôi có khả năng truy lùng và
nhận diện.
Đang
mừng thầm trong lòng, tôi bỗng thấy một thanh niên trong làng, tên Xuất, xuất
hiện ngay ở phía sau xe, và đang nhìn vào trong xe như muốn tìm kiếm một người
nào đó. Sự xuất hiện đột ngột của anh Xuất đã làm cho tất cả sự vui mừng
mới có trong tôi chỉ ít phút trước thôi gần như tan thành mây khói. Thay thế
vào đó là sự tràn ngập lo âu, vì thêm một lần nữa tôi lại nghĩ rằng sự trốn chạy
của gia đình tôi đã bị phát giác thật rồi, và anh Xuất là một trong số dân quân
du kich trong làng được phái đến bến xe này để tìm kiếm chúng tôi. Vì nghĩ như
thế nên tôi vội vã quay mặt vào phía trong, với hy vọng là anh Xuất chưa nhìn
thấy tôi; còn bố mẹ tôi, mỗi người một góc phía trong cùng, nên có thể anh Xuất
chưa thấy được.
Đang
phân vân lo sợ, thì tôi nghe thấy anh Xuất phàn nàn với mấy hành khách ngồi ở
phía ngoài cùng rằng, anh đã đến bến xe này từ 9 giờ sáng, và đã đợi hơn ba tiếng
đồng hồ rồi, mà xe vẫn chưa chịu chạy. Than vãn xong, anh lững thững đi về phía
đầu xe. Tuy nhiên tôi vẫn không dám tin rằng anh Xuất là một hành khách thuần
túy, mà còn ngờ vực rằng, có thể anh ta đã nhận ra chúng tôi, song vì chỉ có một
mình, rất khó bắt và dẫn giải cả ba người cùng một lúc được, nên anh mới giả vờ
than phiền và lỉnh đi, để gọi thêm tiếp viện, hoặc đến đồn công an bến xe để
yêu cầu giúp đỡ.
Khi
anh Xuất vừa đi khuất, tôi bèn xuống xe lẻn theo sau cho đến khi thấy anh đi tới
buồng lái, mở cửa, leo lên xe, uể oải ngồi xuống phần ghế mà anh vì đến sớm hơn
đã chiếm được ngay sát cửa xe. Tới lúc đó tôi mới hoàn hồn và tạm tin rằng anh
Xuất không phải là dân quân du kích được phái đi tìm bắt chúng tôi, mà chỉ là một
trong những hành khách đến sớm nhất, nên đã may mắn dành được một chỗ ngồi tốt
nhất dành cho hành khách trong buồng lái mà thôi.
Chúng
tôi phải đợi thêm gần một tiếng đồng hồ nữa thì mới đủ số lượng hành khách tối
thiểu để xe khởi hành. Trong thời gian chờ đợi, tuy ngắn ngủi, nhưng tôi cảm thấy
dài vô tận, vì cứ độ mười hay mười lăm phút, anh Xuất lại từ buồng lái đi về
phía sau xe làm công tác “điểm số” hành khách trong xe. Tôi rất thông cảm
với sự mất kiên nhẫn của anh trong việc đợi chờ xe chạy, song tôi cũng không khỏi
lo ngại rằng, nếu chẳng may thấy được sự có mặt cả ba chúng tôi cùng một lúc
trên xe, anh Xuất sẽ đủ thông minh mà đoán ra sự trốn chạy của gia đình chúng
tôi, và anh có thể đi báo công an đến bắt giữ chúng tôi. Tôi tin rằng, trước
khi tôi và mẹ tôi lên xe, anh Xuất cũng đã “điểm số” hành khách nhiều lần như
thế, khiến bố tôi đã phải kiếm một chỗ ngồi khá kín đáo mãi trong cùng của
thùng xe.
Cuối
cùng, xe cũng đã rời bến vào lúc một giờ chiều. Trên đường từ Trung Hà về
Sơn Tây, dài khoảng 25 đến 30 cây số, xe ngừng lại nhiều lần để cho khách lên
xuống. Anh Xuất đã xuống xe khi chiếc xe đò chạy gần đến bến xe Sơn Tây. Khi xuống
xe anh mang đi hầu hết tất cả những nỗi lo âu trong lòng tôi. Tuy nhiên, vẫn
còn một mối lo khác là khi vào bến xe Sơn Tây để mua vé đi Hà Nội, chúng tôi có
thể bị công an xét hỏi giấy tờ. Riêng tôi vẫn còn giữ được tấm thẻ học sinh
niên khóa 1954, nên không gặp khó khăn nào. Còn bố mẹ tôi, không có bất kỳ một
giấy tờ nào lộn lưng cả, và rất có thể sẽ gặp rắc rối.
Theo
thông lệ trong vùng kháng chiến lúc bấy giờ, trong một hành trình đường dài
xuyên qua nhiều tỉnh thành khác nhau như thế, bố mẹ tôi ít nhất phải có giấy
phép của công an huyện hoặc hay giấy chứng nhận của Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến
huyện, hay ít ra là của Ủy Ban Hành Chính Kháng Chiến xã mới được tạm coi là hợp
lệ. Càng đến gần bến xe bao nhiêu thì mối lo canh cánh trong lòng tôi càng tăng
lên bấy nhiêu.
Khi
đến đầu con đường rẽ vào bến xe Sơn Tây, thì chiếc xe đò chở chúng tôi đột ngột
ngừng lại. Cứ mỗi lần xe ngừng bất thần, là tôi lại lo ngại là xe đã bị các
toán công an lưu động chặn lại để xét giấy tờ hành khách và kiểm tra hàng hoá.
Chưa biết thực hư ra sao, bỗng thấy một gã “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh
bao” xuất hiện ở phía sau xe và nói với hành khách trong xe một cách rất lịch sự
rằng: Theo lịch trình thì mãi đến chiều mồng Hai tết, xe của ông ta mới đến lượt
đón khách về Hà Nội, song vì muốn về sớm ăn tết, nên mang xe ra đây đón một số
khách đi Hà Nội, hầu gỡ gạc chút ít tiền xăng nhớt. Thấy đây là cơ hội tốt để
tránh những khó khăn có thể xảy ra ở bến xe Sơn Tây, chúng tôi vội vã chuyển
sang xe của ông ta ngay. Xe chuyển bánh ngay lập tức.
Xe
khách chạy tuyến Sơn Tây – Hà Nội, là hai thành phố tương đối lớn, nên có vẻ sạch
sẽ và sang trọng hơn xe chạy đường Trung Hà – Sơn Tây rất nhiều. Trong xe, ghế
bọc da còn khá mới và chỗ dựa rất êm. Có lẽ vì mới tiếp quản, xe hành khách vẫn
còn nằm trong tay tư nhân, và chưa bị bắt buộc phải gia nhập vào Công Ty Quốc
Doanh Chuyên Chở, nên mới còn sang trọng như thế. Xe chạy khá nhanh và thẳng một
mạch về Hà Nội. Khi gần đến bến xe Ô Cầu Giấy, gia đình tôi lại gặp may một lần
nữa. Ông chủ xe kiêm tài xế cho biết vì không tiện vào bến xe, nên yêu cầu hành
khách vui lòng giúp ông xuống xe bên ngoài bến xe, và ông còn cho biết thêm là
trên đường về nhà, xe của ông ta chạy qua phố Hàng Trống, nên ai muốn đến đó,
hãy ngồi lại trên xe. Vì biết phố Hàng Trống rất gần phố Cầu Gỗ nên chúng tôi
đã ngồi lại trên xe để đi vào giữa lòng thành phố Hà Nội.
Trên
đường vào trung tâm Thủ Đô vào những ngày cận Tết khá nhộn nhịp. Xe của chúng
tôi thường chạy qua những phố phường rợp trời cờ đỏ sao vàng và chui qua một số
cổng chào đã được dựng lên mấy tháng trước đây để chào đón bộ đội cụ Hồ vào tiếp
quản thủ đô Hà Nội và mới được tân trang để chào mừng Tết Nguyên Đán. Khoảng 5
giờ chiều chúng tôi mới tới được nhà bà chị ruột của bố tôi ở phố Cầu Gỗ. Khi
bước vào nhà, chúng tôi đã thấy vợ chồng người anh và đứa em gái cũng đã
tới đó khá lâu rồi. Anh tôi cho hay là chuyến đi của họ hầu như không hề gặp bất
kỳ một khó khăn nào cả.
Tới
lúc bấy giờ bố tôi mới nói rõ cho bà chị biết việc trốn chạy cộng sản và ý định
di cư vào miền Nam của gia đình tôi, đồng thời xin bà cho tá túc trong những
ngày chờ đợi tìm đường xuống Hải Phòng. Bố tôi cũng nói sơ lược cho bà biết gia
đình tôi đã bị đày đọa và đấu tố như thế nào trong chiến dịch Phóng Tay Phát Động
Quần Chúng ở làng tôi. Ông cũng khuyên bà nên thu xếp gia đình để vào Sài
Gòn làm ăn sinh sống thì tốt hơn, không nên tiếc rẻ mấy căn phố đang cho thuê ở
lại Hà Nội, vì những căn phố ấy trong tương lai chẳng những không thâu được tiền
cho thuê, mà còn có thể bị người thuê tố cáo ngược lại là đã cho thuê với giá cắt
cổ để đòi lại tiền đã trả “thặng dư” từ chủ nhân từ trước tới nay nữa. Và rồi,
những căn nhà ấy sẽ được nhà nước tịch thu. Như phần đông người Hà Nội
lúc bấy giờ, bà bác tôi không thấy được những gì Việt Minh đã làm, mà chỉ nghe
những gì họ nói, nên cứ bám víu lấy nhà cửa để ở lại với Bác và Đảng. Khi thấy
được thực tế phũ phàng, thì đã quá muộn màng mất rồi.
(Còn
tiếp)
*****
Cuộc
trốn chạy từ miền Bắc Cộng Sản vào miền Nam Tự Do 1954 (3)
Huy Vũ -
Saigon Nhỏ
18
tháng 10, 2024
(tiếp
theo và hết)
Giai
đoạn II từ Hà Nội xuống Hải Phòng
Trong
thời gian chờ đợi tìm đường đi Hải Phòng, gia đình tôi được thu xếp đến tạm trú
và ăn Tết Ất Mùi trong một căn hộ tại phố Hàng Đậu. Căn nhà này do người cháu gọi
bố tôi bằng chú làm chủ, và trước khi di cư vào Nam, được giao cho bà chị của bố
tôi quản lý. Tết Ất Mùi là cái tết đầu tiên cũng là cái tết cuối cùng gia đình
tôi được ăn tết ở cố đô Thăng Long ngàn năm văn vật. Ngay tối hôm đó, tôi được
mấy đứa cháu dẫn đi coi chợ hoa. Tại đây, tôi còn thấy cảnh ông Đồ già, quần trắng
áo the thâm, “bày mực Tàu giấy đỏ, bên phố đông người qua” nhưng người thuê viết
chỉ lác đác có mấy người.
Vào
chiều mồng ba Tết, người chị ruột của bố tôi đến thăm, bà mang đến cho chúng
tôi một giỏ bánh Tây (bánh mì) và thịt quay còn nóng hổi và khi cả nhà đang ăn
và nói chuyện vui như Tết, thì tôi nghe thấy có tiếng xì xào ở phía cửa
sau. Đứng lên, bước tới cửa sổ, nhìn ra sân sau, rồi nhìn sang gia đình
hàng xóm kế cận, tôi thấy một người cao lớn, mặc đồ đại cán, đội nón cối xanh
có gắn huy hiệu Công An Nhân Dân đỏ chót. Có lẽ vì “có tật, giật mình” gia đình
tôi hoảng hồn tưởng là công an Hà Nội đã đánh hơi thấy việc trốn chạy của gia
đình tôi, nên đến để dò xét và điều tra qua gia đình người hàng xóm. Những miếng
bánh mì giòn tan và những miếng thịt quay béo ngậy đang ăn trong miệng bỗng
nhiên mắc kẹt ở cuống họng.
Sau
một vài phút nghe trộm, tôi mới vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là một anh công an bình
thường, đến thăm một gia đình quen biết là hàng xóm của chúng tôi, nhân dịp đón
tết Nguyên Đán. Vì nhà tôi và nhà người hàng xóm, chẳng những kế cận nhau mà
còn có sân sau ăn thông với nhau nữa, và khi nói chuyện với gia chủ, chú công
an đã vô tình đứng lấn sang phần sân của chúng tôi, nên mới gây ra sự hiểu lầm.
Tới
được Hà Nội với đầy đủ các thành viên trong gia đình, là điều rất mừng, vì đã
vượt qua được một đường đầy bất trắc và nguy hiểm, song chúng tôi vẫn còn nằm
trong vùng kiểm soát của Việt Minh, chỉ khi nào vào được tới Hải Phòng, mới có
thể nói là thành công trọn vẹn. Trong thời gian chờ đợi tại Hà Nội, tôi tranh
thủ thăm viếng hầu hết các thân bằng quyến thuộc để hỏi thăm đường đi nước bước
và cũng thăm dò xem họ có cách nào giúp chúng tôi trốn xuống Hải Phòng
không? Một trong số thân nhân mà tôi đã viếng thăm là cô Lan, cùng lứa tuổi
và là bà con bạn dì với tôi, nhà ở phố Hàng Cót. Được biết cô Lan vừa mới
xuống Hải Phòng thăm mẹ trở về, nên tôi hỏi thăm khá kỹ về đường đi nước bước.
Cô cho biết, vì là người đang cư ngụ hợp lệ tại Hà Nội, nên việc cô xin phép đi
Hải Phòng hầu như không gặp khó khăn nào cả và chỉ cần đến đồn Công An, xuất
trình đầy đủ giấy tờ chứng minh là cư dân Hà Nội là được cấp giấy phép đi Hải
Phòng ngay. Còn người Hải Phòng, trong thời gian ấy thường lên Hà Nội để coi
hát rất đông, vì đoàn văn công của Liên Khu Bắc Việt đang trình diễn thường trực
tại Nhà Hát Lớn, song cô không rõ là những người này khi trở về phải trình những
giấy tờ gì? Cô còn cho tôi xem Giấy Phép do công an Hà Nội cấp cho cô đi Hải
Phòng nữa.
Khi
xem giấy phép này, tôi thấy trong giấy phép của cô không có hình và còn tới hai
tuần nữa mới hết hạn và đặc biệt hơn nữa trong giấy phép tên của cô là TRẦN
PHƯƠNG LAN mà không phải là TRẦN THỊ LAN như tôi vẫn tưởng. Khi thấy giấy phép
tên lót của cô lại là PHƯƠNG mà không phải là THỊ, như phần đông phụ nữ trong
xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, nên tôi nghĩ ngay đến việc lợi dụng giấy phép này
để đi Hải Phòng. Vì với cái tên TRẦN PHƯƠNG LAN người ta có thể nghĩ là tên của
một cậu con trai hơn là tên của một cô con gái. Tôi bèn ngỏ lời hỏi mượn giấy
phép của cô và được chấp thuận một cách không do dự.
Sáng
hôm sau tôi đã có mặt tại ga Hàng Cỏ để đáp chuyến xe lửa đầu tiên đi Hải
Phòng. Khi bước vào phòng bán vé, tôi thấy một vài chú công an lảng vảng, nên
cũng hồi hộp đôi chút, nhưng không bị xét hỏi gì cả, tuy nhiên khi mua vé đi Hải
Phòng tôi đã phải xuất trình giấy phép. Người bán vé dường như cũng chẳng thắc
mắc gì về cái tên Trần Phương Lan là nam hay nữ cả.
Vài
giờ sau đó tôi đã đến được ga Phạm Xá, nơi đây xe lửa từ Hải Phòng lên Hà Nội,
và Hà Nội xuống Hải Phòng phải ngừng lại cả giờ đồng hồ để hai bên Quốc-Cộng
bàn giao xe và thay đổi nhân viên điều hành, với sự chứng kiến của Ủy Hội Quốc
Tế gồm Ấn Độ, Gia Nã Đại và Ba Lan. Tại giao điểm này, tôi thấy những hành
khách ăn mặc có vẻ nửa quê, nửa tỉnh trên xe lửa Hà Nội đi Hải Phòng thường được
công an “chiếu cố” kỹ lưỡng. Nhiều ông già, bà cả, và em nhỏ được công an
và bộ đội đến hỏi han đôi ba câu rồi bỏ đi. Và một lát sau, có lẽ là công an giả
dạng đến hỏi han và chuyện trò rất thân mật và vui vẻ với họ như con cái hay chị
em trong nhà, nhưng đến khi đoàn xe lửa kéo còi báo hiệu sắp sửa chuyển bánh đi
Hải Phòng thì các cô công an giả dạng chồm tới ôm chầm lấy đối tượng kéo xuống
xe, đồng thời miệng bù lu bù loa khóc lóc và năn nỉ rằng, ông hay bà, bố hay mẹ,
anh hay chị em đừng nghe theo lời tuyên truyền dụ dỗ của những tên Việt Gian
bán nước, bỏ lại con cái, anh chị em, nhà cửa, ruộng vườn cùng mồ mả của ông
cha để di cư vào Nam. Mặc dù người bị lôi kéo vừa giãy giụa vừa la hét chối bỏ
sự liên hệ gia đình với những người này, nhưng vẫn bị công an và bộ đội ôm kéo
xuống xe, trước sự ngơ ngác của các thành viên trong Ủy Hội Quốc Tế.
Mãi
tới hơn 10 giờ sáng tôi mới tới được căn nhà của cô tôi (mẹ của cô Lan) tạm trú
trong thời gian chờ đợi đến lượt đi máy bay vào Sài Gòn. Đó là gia đình của một
bà bạn thân của cô tôi. Chồng bà, theo cô Lan cho biết, là một viên chức cao cấp
của Sở Công An Bắc Việt. Trong khi hàn huyên với cô tôi và bà chủ nhà về thảm cảnh
ở quê tôi trong tám năm kháng chiến, và đặc biệt về những nghiệt ngã mà bố mẹ
tôi đã phải chịu đựng trong chiến dịch Phóng Tay Phát Động Quần Chúng, cùng những
khó khăn của gia đình tôi trong việc kiếm đường từ Hà Nội xuống Hải Phòng, tôi
thấy bà chủ nhà hiểu biết khá đầy đủ về những gì đã và đang xảy ra trong vùng
Việt Minh đang kiểm soát. Đây là lần đầu tiên tôi gặp bà, song phong cách lịch
thiệp của bà đã khiến tôi có cảm tưởng như quen biết bà từ lâu. Vì là bạn thân
của của cô tôi, nên khi nói chuyện với tôi bà xưng là cô và bà gọi tôi bằng
cháu rất thân mật. Sau đó bà cho biết là 12 giờ trưa, chồng bà, sẽ về nhà ăn
cơm, và bà sẽ hỏi xem có cách nào giúp gia đình tôi xuống Hải Phòng. Bà mời tôi
dùng cơm trưa thanh đạm với gia đình bà và cô tôi.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2024/10/Mot_nguoi_di_cu_Thien_Chua_giao_1954.jpg
Một
người Thiên Chúa giáo di cư từ miền Bắc nhận đồ dùng do Mỹ phân phát. (Hình: US
Govt/Wikipedia.org)
Hơn
12 giờ, chồng bà về tới nhà trên một chiếc xe mobylette cọc cạch. Phong thái giản
dị và cách ăn nói nhẹ nhàng của ông đã làm cho kính trọng ông. Sau khi được biết
về tình trạng khó khăn của gia đình tôi, ông cho biết là thủ tướng Ngô Đình Diệm
đã chỉ thị cho Thủ Hiến miền Bắc là Lê Quang Luật phải vận dụng mọi phương tiện
để giúp đỡ tất cả những người nào ở miền Bắc muốn di cư vào miền Nam. Sở công
an của ông cũng đã nhận được chỉ thị là phải tìm mọi cách để giúp đỡ dân chúng
đang sống trong vùng Việt Minh kiểm soát trốn sang vùng Quốc Gia càng đông càng
tốt. Ông còn thêm là, mới đây sở công an được biết trên các tuyến xe lửa cùng
như xe hơi vào Hải Phòng, bọn Việt Minh chặn xét giấy tờ rất nghiêm ngặt và chỉ
cho phép những người nào có giấy tờ của chúng cấp mới được vào vùng kiểm soát của
Pháp và những người nào có đủ giấy tờ chứng minh là đang cư ngụ trong vùng tạm
chiếm mới được vào Hải Phòng. Do đó ty công an Hải Phòng đã tương kế tựu kế, buộc
những người dân đang sống trong vùng, khi muốn thăm thân nhân vùng Việt Minh kiểm
soát phải xin giấy thông hành. Khi cấp thông hành, thì giấy Căn Cước có hình được
giữ lại cho đến khi nào trở về mới được hoàn trả. Trên giấy thông hành không bắt
buộc phải dán hình, nên Ty Công An có thể cấp giấy này cho một số người dân
đang sống trong vùng Việt Cộng để họ có giấy tờ hợp lệ vào Hải Phòng. Sau hết,
ông cho biết thêm là ông sẽ tới Ty Công An Hải Phòng lấy cho tôi một số Giấy
Thông Hành đã đóng dấu và ký tên, nhưng chưa có tên người được cấp, để tôi tùy
nghi sử dụng. Ông cũng khuyên tôi là khi đã có đủ giấy tờ nên đi ngay, không
nên chần chờ, vì chỉ một thời gian ngắn sau thôi, bọn Cộng Sản sẽ đánh hơi được
việc này, thì nguy hiểm khó lường.
Ngay
chiều hôm ấy tôi trở về Hà Nội với một xấp giấy thông hành thật dưới dạng “bạch
khế” được giấu trong lớp giấy lót trong chiếc nón cối của tôi. Như thế là khâu
khó nhất trong việc trốn chạy của gia đình tôi đã có lối thoát. Chỉ còn mỗi một
việc chót nữa là vào một buổi sáng đẹp trời rất gần, cả gia đình sẽ “hiên
ngang” bước vào ga hàng cỏ, đáp xe lửa đi Hải Phòng là xong. Nào ngờ vào phút
chót lại gặp trở ngại khá lớn. Số là người chị dâu của tôi, khi thấy giấy thông
hành để đi vào Hải Phòng đã được cấp, bỗng oà lên khóc, đòi trở về sống với bố
mẹ ở làng Vĩnh Lại. Công bằng mà nói, việc xuất giá tòng phu của chị vào lúc ấy
là một sự mất mát lớn lao cho cá nhân chị. Gia đình chị trong chiến dịch Phát Động
Quần Chúng cùng một đợt với làng tôi, được xếp vào loại Trung Nông, nên không bị
đối xử tàn tệ như gia đình tôi. Do đó việc lôi kéo chị đi trốn chạy cùng
với gia đình tôi vào miền Nam, không một lời từ biệt mẹ cha và anh em ruột thịt,
và rất có thể chị sẽ không bao giờ còn gặp lại họ nữa, chắc chắn đó là một nỗi
đau lòng đối với chị.
Khi
rời căn nhà trại ra đi, anh tôi đã không nói rõ cho chị biết chuyện trốn chạy
này, mà chỉ nói với chị là đi chợ Sơn Tây bán rau củ thôi. Sau khi bán hết rau
củ, mặt trời vẫn còn trên đỉnh đấu, anh tôi mới bàn với chị và cô em gái đi Hà
Nội để thăm bà bác nhân dịp cuối năm và viếng thăm danh lam thắng cảnh. Đối với
chị và cô em gái của chúng tôi hầu chưa bao giờ bước chân tới những thành phố lớn,
nói chi đến Hà Nội, nên đồng ý ngay. Đến khi thấy bố mẹ tôi và tôi cũng đã tới
nhà bà bác tôi ở Hà Nội, lúc bấy giờ anh tôi thấy rằng không còn “lấy thúng úp
voi” được nữa, mới thú nhận việc trốn chạy của gia đình tôi với chị. Có lẽ phần
vì chị có bầu sắp đến ngày sanh, phần vì chưa chắc gì gia đình tôi có cơ may trốn
thoát xuống Hải Phòng được, nên chỉ khóc lóc sơ sơ thôi. Nhưng đến khi có giấy
thông hành đi Hải Phòng trong tay rồi, nghĩa là việc ra đi của gia đình tôi hầu
như không còn gặp khó khăn nào nữa, nên chị mới đòi trở về với bố mẹ của chị.
Tôi
không biết anh tôi xoay xở và năn nỉ làm sao, mà sáng hôm sau chị dâu tôi bằng
lòng cùng gia đình tôi đi Hải Phòng. Song sự ra đi đầy miễn cưỡng của chị khiến
gia đình tôi lo ngại rằng, trên đường đi, chị có thể tìm gặp công an ở ga xe lửa
Hàng Cỏ hay ở ga Phạm Xá để xin trở về làng, gián tiếp tố cáo sự trốn chạy của
gia đình tôi. Cuối cùng nhờ Trời Phật và tổ tiên phù hộ, việc lo ngại này đã
không xảy ra và gia đình tôi đã lọt vào Hải Phòng một cách êm xuôi.
Giai
đoạn III từ Hải Phòng vào Saigon
Sau
khi đã lọt vào Hải Phòng, do sự sắp xếp của một người cháu gọi bố tôi bằng chú,
chúng tôi đến tạm trú trong một căn nhà ở phố Cầu Đất. Rồi sáng hôm sau được dẫn
tới trại Tỵ Nạn của Phủ Tổng Ủy Di Cư làm các thủ tục cần thiết để di cư vào miền
Nam tự do. Tại đây gia đình tôi được tiếp đón niềm nở và trở thành thành viên
ngoại trú của trại di cư này.
Khoảng
hai tuần sau, một chiếc GMC đến căn nhà ở phố Cầu Đất để đưa chúng tôi ra bến cảng.
Tại đây gia đình tôi và nhiều gia đình khác được đưa xuống một chiếc tàu “há mồm”
để đi ra chiếc tàu lớn của Mỹ có tên là ADDER, đậu ở Vịnh Hạ Long, trong chuyến
đầu tiên của nó chở người tỵ nạn cộng sản từ cảng Hải Phòng vào cảng Sài Gòn.
Đứa
con gái đầu lòng của anh tôi được sinh ra trên tàu Adder và cháu được ông
nội đặt tên là Vũ Nam Mỹ. Vũ là họ của gia đình chúng tôi. Nam tượng trưng cho
cuộc trốn chạy vào miền Nam của gia đình chúng tôi. Mỹ tượng trưng cho cho con
tàu của nước Mỹ đã chở gia đình tôi từ miền bắc Cộng Sản vào miền Nam Quốc Gia.
(hết)
No comments:
Post a Comment