Ngôn
ngữ của miền Nam Việt Nam đang tiếp tục bị xâm thực
Đỗ
Thái Nhiên
27/05/2024
https://baotiengdan.com/2024/05/27/ngon-ngu-cua-mien-nam-viet-nam-dang-tiep-tuc-bi-xam-thuc/#google_vignette
Tháng
3/2022, Bến Bạch Đằng Saigon bị đổi tên thành “Ga Tàu Thủy Bạch Đằng”. Sự kiện
này đã dẫn đến những tranh luận trong dân gian chung quanh đề tài: Ngôn ngữ Hà
Nội (ngôn ngữ miền Bắc) đang làm mờ dần sắc thái đặc biệt của ngôn ngữ miền Nam
Việt Nam.
Ngày
4 tháng 3 năm 2024, BBC NEWS đã phổ biến một bài viết có tựa đề: “Phương
Ngữ Miền Nam Việt Nam đang tiếp tục bị xâm thực”. Bài viết này ghi nhận
rằng, phương ngữ Hà Nội, phương ngữ đảng thì đúng hơn, đã tràn ngập các bảng chỉ
đường, cách viết trên sách giáo khoa, trên báo chí. Sự kiện “xâm thực” kia xin
được dẫn chứng bằng một số thí dụ điển hình như sau:
–
Miền Nam gọi là bùng binh, Miền Bắc đổi thành vòng xuyến
–
Giao lộ, ngã 4, ngã 5 đổi thành nút giao
–
Xe cộ: Phương tiện giao thông
–
Lái xe: Điều khiển phương tiện giao thông
–
Con rùa: Cá thể rùa
–
Đi dạo, đi lang thang: Đi phượt
–
Đi cổ vũ, đi hoan hô: Đi bão
–
Đương sự: Đối tượng
–
Nguyên đơn: Bị hại
–
Thực hiện nhiêm vụ: Bám sát nhiệm vụ
–
Có giá trị: Chất lượng cao
–
Thi hành hữu hiệu: Làm rất tốt
Nhà
báo Cù Mai Công, cựu thư ký tòa soạn báo Tuổi Trẻ, một cây bút viết sách về
Saigon xưa, nói với BBC News tiếng Việt rằng: Nếu kể về ngôn ngữ miền Bắc tràn
vào miền Nam thì “nhiều lắm, kể không nổi đâu và cũng không cần kể vì ai
cũng thấy, cũng nghe ra rả hàng ngày”.
Vẫn
theo bài viết của BBC News, sở dĩ ngôn ngữ đảng CSVN phủ sóng áp đảo trên toàn
thể Việt Nam, đặc biệt là trên miền Nam Việt Nam là vì Hà Nội nắm lợi thế của
truyền thông, lợi thế của bộ máy nhà nước. Sau đây là ba phương pháp chính yếu
giúp Hà Nội thực hiện hành động xâm thực ngôn ngữ của địa phương miền Nam Việt
Nam:
1.
Nhà nước Hà Nội là chế độ toàn trị. Vì vậy Hà Nội nắm giữ độc quyền giảng dạy
và độc quyền in sách giáo khoa cho sinh viên học sinh. Từ đó ngôn và lời của guồng
máy giáo dục kia đều là ngôn ngữ đảng. Và cũng từ đó các thế hệ trẻ xuất thân từ
hệ thống giáo dục của Hà Nội đều cảm thấy xa lạ mỗi khi nghe nói tới ngôn ngữ địa
phương của Việt Nam, nhất là của miền Nam Việt Nam.
2.
Nhà nước độc quyền xuất bản sách báo và độc quyền kiểm soát báo chí. Vì vậy muốn
cho bài vỡ, sách báo đi qua cửa ải kiểm duyệt một cách êm ả, giới cầm bút tại
Việt Nam thường phải viết theo cung cách của đảng, sử dụng ngôn ngữ đảng.
Đây
là một quy định ngầm trong giới báo chí.
3.
Đài VTV là đài truyền hình quốc gia duy nhất tại Việt Nam. VTV lại được vô số
cơ quan truyền thông tiếp vận về địa phương. Điều này giải thích lý do tại sao
hầu như toàn bộ truyền thông Viêt Nam đều tuyển dụng nhân viên truyền thanh,
truyền hình nói giọng Bắc, viết kiểu đảng, dùng ngôn ngữ của đảng.
Sau
cùng, xin được nhấn mạnh: Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam đã long trọng minh định: “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân
tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc dân tộc, phát huy phong
tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”.
Rõ
ràng Hà Nội thừa biết hành động bôi xóa ngôn ngữ địa phương của miền Nam Việt
Nam là một việc làm trái với hiến pháp do chính chế độ Hà Nội viết ra. Thế
nhưng, tại sao Hà Nội vẫn quyết liệt hành động một cách có hệ thống? Hà Nội trả
lời câu hỏi này bằng cách nêu vấn đề “chuẩn hóa và thống nhất tiếng Việt” như một
phương pháp mặc nhiên dẫn đến đoàn kết toàn dân, thống nhất nhân tâm. Lời lẽ biện
minh kia của Hà Nội có thỏa đáng và nghiêm chỉnh hay không? Người cầm bút xin
được bình giải thắc mắc vừa kể ở phần nói về nhận thức đối với hiện tượng ngôn
ngữ miền Nam Việt Nam bị xâm thực.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2024/05/1-57-1024x754.png
Ảnh
minh họa. Tiếng Dân edit
Nhận
định về đại họa xâm thực ngôn ngữ địa phương
Nhận
định về sự kiện ngôn ngữ miền Nam Việt Nam bị xâm thực, chúng ta không thể
không khảo sát mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa.
Trái
nghĩa với văn minh là dã man. Dã man là tình huống sống không có sự khác biệt
giữa đời người và kiếp vật. Với đà tiến hóa của lịch sử, con người bắt đầu nhận
ra đời người cần phải được tổ chức khác hẳn và cao cấp hơn kiếp vật. Từ đó ý niệm
văn minh ra đời: văn minh là khoảng cách biệt trong sinh sống giữa đời người và
kiếp vật. Và cũng từ đó mọi suy nghĩ và hành động nhằm làm cho xã hội loài người
hóa thành văn minh hơn gọi là văn hóa.
Văn
hóa qua sự truyền đạt của ngôn ngữ xác quyết rằng: điểm trội yếu của văn minh
là sự đòi hỏi mọi người (cá nhân và pháp nhân tư nhân) sanh ra đều bình đẳng và
rằng bình đẳng hàm ý bình đẳng về cơ hội sống: đời sống tinh thần và đời sống
thể chất.
Xã
hội loài người khởi đi từ bộ lạc, tiến lên làng xã rồi mới đến quốc gia. Nói rõ
ra địa phương có trước quốc gia, đia phương là gốc rễ của quốc gia. Không có địa
phương, không thể có quốc gia.
Mặt
khác, Không có bất kỳ ngôn ngữ nào không xuất phát từ một địa phương cụ thể.
1. Ngôn ngữ là gạch nối giữa con người với con
người.
2.
Ngôn ngữ là phương tiện gói ghém phong tục tập quán, văn hóa địa phương và nhất
là lòng yêu thương quê cha đất tổ.
3.
Ngôn ngữ là chỉ dấu của tự do tư tưởng, tự do biểu tỏ trí thông minh và óc sáng
tạo.
4.
Ngôn ngữ là linh hồn của văn hóa địa phương.
Những
điều vừa trình bày nói lên sự cách biệt giữa đời người và kiếp vật, đây là văn
hóa. Ngôn ngữ đan quyện vào văn hóa, làm cho văn hóa được hiển lộ. Ngôn ngữ
đích thực là linh hồn của văn hóa. Xâm thực ngôn ngữ địa phương chính là thủ
tiêu sinh mệnh văn hóa của địa phương.
Nếu
quốc gia là một guồng máy thì địa phương là những cơ phận của guồng máy kia.
Trong trường hợp sinh hoạt của địa phương không tồn tại trên căn bản độc-lập-nhưng-liên-lập
thì địa phương hiển nhiên là những gốc cây khô và quốc gia chỉ là quốc gia
không gốc rễ, quốc gia do chế độ độc tài nhào nặn ra.
Từ
mỗi địa phương lên đến quốc gia, tất cả đều được hình thành bởi hai yếu tố:
Linh
hồn địa phương: Lòng yêu thương dãy núi, bờ sông, hàng tre, ruộng lúa, yêu đồng
quê, yêu tổ quốc, yêu đời sống tự chủ, yêu phong tục tập quán, yêu ngôn ngữ
vùng miền, yêu cảnh quang quê cha, đất tổ, yêu “phép vua thua lệ làng”… Nói
chung là yêu và sống quấn quyện trong văn hóa. Văn hóa thăng hoa sản sinh ra
văn, thi, nhạc, họa.
1.
Văn là ngôn ngữ của bút mực.
2.
Thi là ngôn ngữ của vần điệu.
3.
Nhạc là ngôn ngữ của âm thanh.
4.
Họa là ngôn ngữ của màu sắc.
Ngôn
ngữ thực sự là linh hồn của bốn viên ngọc quý, của văn hóa, là linh hồn của mỗi
địa phương.
Hành
chánh địa phương: (Cơ thể địa phương) cơ quan công quyền địa phương. Hội đồng
xã, xã trưởng, phó xã trưởng, các tiểu ban: y tế, giáo dục, an ninh, trật tự… tổ
chức và điều động đời sống cho muôn dân.
Từ
sau 30/4/1975, CSVN nắm giữ toàn bộ guồng máy hành chánh Việt Nam từ trung ương
tới địa phương. Riêng linh hồn của địa phương, nói theo kiểu Võ Văn Kiệt “bên cạnh
một triệu người vui có một triệu người buồn”. Lòng dân ly tán. Vì vậy, nhằm làm
biến mất một triệu nỗi buồn kia, CSVN đã chiếm giữ linh hồn của địa phương bằng
cách xâm thực phương ngữ, đặc biệt là phương ngữ miền Nam Việt Nam. Xin nhấn mạnh
phương ngữ là linh hồn của văn hóa địa phương.
Như
vậy, 30/4/1975 CSVN chiếm giữ cơ thể (hành chánh) Việt Nam. Ngày nay bằng hành
động xâm thực phương ngữ Việt Nam, CSVN đang chiếm giữ linh hồn Việt Nam. Do
đó, CSVN đã thực hiện được tham vọng chiếm giữ cả cơ thể lẫn linh hồn Việt Nam.
Sự
thể này dẫn đến hệ quả đời sống tình cảm của người Việt Nam: Tình yêu con cái đối
với cha mẹ, tình bằng hữu, tình yêu nam nữ, yêu quê hương, yêu bờ cây bụi cỏ,
yêu địa phương, yêu tổ quốc đều bị triệt để bôi trắng… Sau một loạt bôi trắng
kia cộng với giáo dục nhồi sọ, trong tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam sống
dưới chế độ Cộng Sản chỉ còn lại một loại tình yêu đơn độc đến lạ lùng: yêu tổ
quốc tức yêu xã hội chủ nghĩa. Nói ngắn và gọn toàn dân chỉ có một nghĩa vụ duy
nhất phải tuân hành: yêu đảng và trung với đảng.
Người
Việt Nam nghĩ gì và làm gì trước đại họa xâm thực ngôn ngữ địa phương
Xin
được nhắc lại: Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
đã long trọng minh định: “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có
quyền dùng tiếng nói, chữ viết, gìn giữ bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập
quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”. Rõ ràng Hà Nội thừa biết
hành động xâm thực ngôn ngữ địa phương của miền Nam Việt Nam là một việc làm
trái với xu thế sống bình thường của loài người. Hành động vừa kể của chế độ Hà
Nội đã thực sự chống lại điều 1 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền ngày 10 tháng
12 năm 1948: “Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng”.
Mọi
người bao hàm cá nhân và pháp nhân tư nhân (gia đình, làng xã, địa phương).
Bình đẳng có nghĩa là mọi người đều được tôn trọng như nhau. Mỗi người là một
nguyên. Nguyên là đầu, là trước tiên: nguyên thủ quốc gia, tết nguyên đán (ngày
đầu năm), nguyên nguyệt (tháng giêng) … Mọi người đều là nguyên, đều có quyền
bình đẳng. Dân số hàng triệu người là hàng triệu nguyên. Vì vậy xã hội ắt phải
đa nguyên.
Làm
sao lý tưởng đa nguyên được thực thi? Hãy tìm giải đáp cho câu hỏi vừa nêu bằng
cách khảo sát đời sống của một gia đình. Gia đình phụ hệ: Mọi quyết định về quyền
lợi của gia đình đều nằm trong tay người cha. Nếu tổ chức gia đình được hình
dung như một kim tự tháp thì người cha ngự trên đỉnh kim tự tháp, mẹ và con cái
an phận nằm ở đáy kim tự tháp. Trong gia đình kim tự tháp, đời sống tự giác của
mẹ và con cái của mẹ đều bị triệt tiêu.
Theo
đà phát triển của nhân văn, gia đình kim tự tháp đang nhanh chóng chuyển đổi
thành gia đình hạch tâm (nuclear family). Hạch tâm còn gọi là nguyên tử
vật chất. Hạch tâm gồm các điện tử âm, điện tử dương và trung hòa tử xoay quanh
nhân nguyên tử theo một trật tự bền bỉ, không lãnh tụ, mỗi điện tử di chuyển
trên quỹ đạo riêng, không lấn át lẫn nhau. Tương tự như vậy, trong gia đình hạch
tâm: Cha, mẹ, con cái mỗi người là một cơ phận của gia đình, mỗi người là một
nguyên. Mọi quyết định của gia đình đều lấy quyền lợi chung của gia đình làm
chuẩn mực duy nhất trong việc dẫn đạo gia đình. Điều này giải thích lý do tại
sao gia đình hạch tâm không có gia trưởng nhưng vẫn bình ổn.
Bây
giờ, chúng ta hãy phóng chiếu mô thức gia đình hạch tâm lên địa bàn quốc gia để
có được sự chuyển đổi từ hành chánh kim tự tháp lên hành chánh hạch tâm.
Xã
hội hạch tâm chính là môi trường thích nghi trong việc tạo điều kiện để mỗi địa
phương là một nguyên của quốc gia đa nguyên. Trong quốc gia đa nguyên, tất cả
văn hóa địa phương (ngôn ngữ địa phương là linh hồn) đều được tự do vận động và
phát triển, không có vấn đề ngôn ngữ đảng xâm thực ngôn ngữ địa phương.
Câu
hỏi kế tiếp: Tất cả ngôn ngữ địa phương đều được tư do vận động và phát triển,
như vậy, đâu là con đường tiến đến thống nhất ngôn ngữ Việt Nam? Thưa rằng: Bạn
hãy hình dung ngôn ngữ như một guồng máy, mỗi ngôn ngữ địa phương là một cơ phận
của guồng máy ngôn ngữ kia. Những giao dịch trong guồng máy vừa kể đã đãi lọc
các loại phương ngữ của quốc gia để cuối cùng sản sinh ra ngôn ngữ Việt Nam thống
nhất. Cứ như vậy, phương ngữ tiếp tục giao thoa, tiếp tục đãi lọc lẫn nhau và
tiếng Việt tiếp tục thống nhất trong sinh sinh hóa hóa. Đây chính là chân ý
nghĩa của sinh ngữ trong ngôn ngữ.
Thống
nhất ngôn ngữ phải là kết quả của quá trình đãi lọc các phương ngữ trên căn bản
tôn trọng tính sinh ngữ của ngôn ngữ. Quan điểm này là sự phản kháng mạnh mẽ mọi
hành động thống nhất ngôn ngữ bằng cách dùng “ngôn ngữ đảng” để xâm thực những
phương ngữ khác trên toàn Việt Nam. Ngôn ngữ là linh hồn của văn hóa. Thống nhất
ngôn ngữ nhưng vẫn bảo vệ được tính sinh ngữ của ngôn ngữ là phương pháp khoa học
và thích nghi nhất trong công việc vừa xây dựng ngôn ngữ chung vừa giúp cho văn
hóa liên tục phát triển trong phong phú, thông minh và sáng tạo.
Quần
chúng sản sinh ra văn hóa. Văn hóa địa phương là cỗi gốc của văn hóa quốc gia.
Văn hóa từ đảng ban bố xuống địa phương thông qua “đảng ngữ” là văn hóa phản xu
thế sống, phản nhân văn.
Câu
chuyện “đảng ngữ” xâm thực phương ngữ Việt Nam với hậu ý “đảng hóa văn hóa Viêt
Nam” đã mở ra trong tâm trí người Việt hải ngoại nghĩa vụ phục hoạt văn hóa
truyền thống của Tổ Tiên Việt.
Phục
hoạt văn hóa Việt theo chỉ hướng nào? Thưa rằng, tất cả những gì phục vụ đời sống
của con người, những gì thuận theo lòng người đều hàm chứa trong văn hóa Việt.
Điều này đã giải thích tại sao nhạc vàng của miền Nam Việt Nam trước năm 1975 vẫn
lừng lững phục sinh, mặc cho mọi nỗ lực triệt để ngăn cấm của CSVN.
Xin
được nhấn mạnh: Ngay sau 30/4/1975 người Việt hải ngoại trên bước đường ly
hương đã mang theo văn hóa Việt, đặc biệt là mang theo nhạc vàng. Sau thời gian
ổn định đời sống trên đất khách, người Việt hải ngoại không ngừng tiếp tục sáng
tác và phổ biến nhạc vàng, xem nhạc vàng như những bài kinh nhật tụng gói ghém
tấm lòng thương nhớ đồng bào, thương nhớ quê hương… Khi tâm tình của nhạc vàng
lên tới đỉnh điểm, khi nhạc vàng lan tỏa về tới Việt Nam theo tâm lý “đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, nhạc vàng trở thành gạch nối lớn, gạch nối
chặt chẽ giữa người Việt trong và ngoài nước. Từ đó nhạc vàng hiên ngang hồi
sinh ngay trên quê Mẹ Việt Nam, bất chấp sự cấm cản nghiêm khắc của nhà cầm quyền
Hà Nội.
Nương
vào phương cách phục hoạt của nhạc vàng, người Việt hải ngoại hãy thân mến ngồi
xuống bên nhau, cùng nhau thảo luận về văn hóa truyền thống Việt. Nền tảng của
văn hóa truyền thống Việt là ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích dân gian… Trực tiếp
ngắm nhìn dòng sống Việt, khảo cứu kho tàng văn chương bình dân, các tác giả
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lý Đông A và nhiều nhà tư tưởng khác… đã hệ thống
hóa, chi tiết hóa kho tàng văn chương kia để xây dựng thành tư tưởng truyền thống
văn hóa Việt. Mang văn hóa này phổ vào bốn viên ngọc quý: Văn, thi, nhạc, họa.
Từ bốn viên ngọc vừa kể, văn hóa Việt Nam hải ngoại sẽ tràn về quê hương Việt một
cách êm ái nhưng mạnh mẽ và rộng khắp.
Đi
theo văn hóa truyền thống được phục hoạt, tự do dân chủ sẽ đến với Việt Nam chậm
rãi nhưng vững vàng đúng như hình ảnh nhạc vàng đã bừng bừng sống lại trên toàn
cõi Quê Hương Việt.
No comments:
Post a Comment