Lịch
sử Việt Nam được viết theo chỉ đạo ra sao?
Ái Thư - Luật Khoa Tạp Chí
APR
9, 2024
https://www.luatkhoa.com/2024/04/lich-su-viet-nam-duoc-viet-theo-chi-dao-ra-sao/
Không phải ngẫu nhiên khi mà nhiều nhân vật bị lãng quên, bị
trù dập trong sách sử của Việt Nam.
https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1000/format/webp/2024/04/Doc-sach-cung-Doan-Trang.jpeg
Quyển "Postcolonial Vietnam: New Histories of the
National Past". Đồ họa: Tùy Phong/Luật Khoa.
Cuốn sách
“Postcolonial Vietnam: New Histories of the National Past” (tạm dịch: “Việt Nam
hậu thuộc địa: Những lịch sử mới của quá khứ quốc gia”) xuất bản năm 2002 [1]
là một công trình nghiên cứu xuất sắc của Phó Giáo sư Patricia Pelley về chuyện
viết sử ở Việt Nam.
Đây
cũng là một trong những cuốn sách hiếm hoi mô tả quá trình viết, dựng sử ở Việt
Nam mà Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ thể quyết định và giám sát.
Lịch
sử phải đậm chất Mác
Việt
Minh luôn cho rằng việc ông Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập (năm 1945)
đã đánh dấu cột mốc chấm dứt thời thuộc địa của Việt Nam. Họ gọi giai đoạn 1946
- 1954 đơn thuần là kháng chiến chống Pháp như thể chỉ có hai phe Việt Nam và
Pháp. Do đó, những người Việt không đi theo Việt Minh bị gọi là phản bội hay phản
động.
Tuy
nhiên, theo Patricia Pelley, khó mà xác định rõ cột mốc nào mới là thời điểm chấm
dứt quá khứ thuộc địa ở Việt Nam, vì bản thân người Việt lúc bấy giờ không đồng
nhất mục tiêu về vận mệnh đất nước. Có rất nhiều người Việt không đấu tranh chống
Pháp nhưng cũng chẳng đi theo Việt Minh.
Chưa
kể thời bấy giờ, dù người Việt ở mọi đảng phái đều đồng ý với ông Hồ Chí Minh rằng
người Pháp không nên có mặt ở Việt Nam nữa, thế nhưng, không phải ai cũng cho rằng
lực lượng thay thế Pháp nên là Việt Minh.
Sau
Hiệp định Geneva năm 1954, vĩ tuyến 17 (cầu Hiền Lương - sông Bến Hải, tỉnh Quảng
Trị), như thỏa thuận, đã tạm thời chia Việt Nam thành hai miền Nam - Bắc. Cuối
cùng, vĩ tuyến này trở thành đường biên giới giữa hai quốc gia với hai thủ đô
khác nhau: Hà Nội của miền Bắc và Sài Gòn của miền Nam.
Thế
nhưng, trong các diễn ngôn lịch sử mà miền Bắc viết nên, Việt Nam chỉ tồn tại một
quốc gia duy nhất và có thủ đô đặt tại Hà Nội. Nói cách khác, những người viết
sử miền Bắc luôn phủ định hoàn toàn sự tồn tại của chính quyền miền Nam.
Tư
duy nhị nguyên này được áp dụng mạnh mẽ vào trong quá trình viết sử. Lịch sử phải
mang tính Mác và quá trình viết sử do ông Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp giám
sát. Sử gia thời này phải viết làm sao đó để hài lòng người khác. Ví dụ, nếu sử
gia nhấn mạnh tính Việt Nam mà làm lu mờ tính Trung Quốc thì sẽ mất lòng giới
trí thức gắn bó với Hán học; nếu viết quá sâu về tôn ti trật tự trong xã hội
thì sẽ đi ngược với chủ nghĩa Mác.
Nói
tóm lại, người viết sử thay vì được viết một cách khách quan, trung thực, thì
vào thời kỳ này ở miền Bắc, họ phải viết dựa theo một phiên bản cố định.
Vinh
danh hay phê phán ai là do đảng quyết định
Năm
1953, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) thành lập Ban Nghiên
cứu Lịch sử, Địa lý, Văn học. [2] Phần đông những người viết sử của ban này đã
từng chiến đấu trong chiến khu Việt Bắc. Trưởng ban là ông Trần Huy Liệu.
Mặc
dù ngoài ban này thì còn có nhiều nhóm học giả khác ở các trường đại học và đảng
thì lúc nào cũng hô hào không hề độc quyền chuyện viết sử, tuy nhiên chỉ các
công trình do đảng giao viết mới được xem là cốt yếu. Những ấn phẩm của Ban dày
đặc các văn bản của đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các
cán bộ sử học “vừa hồng vừa chuyên” phải làm nổi bật “tinh thần chiến đấu"
của người cộng sản. Ở đó nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa là một chính thể
tích cực, được người dân tin tưởng và kính trọng.
Ngoài
ban bệ này, đảng còn huy động địa phương viết lịch sử, khuyến khích các quân
nhân viết hồi ký. Tất cả nhằm “đóng góp giáo dục xã hội chủ nghĩa”.
Năm
1959 - 1960, Viện Sử học thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước được thành lập
cũng có tôn chỉ: "Căn cứ vào đường lối của đảng và chính phủ, nghiên cứu lịch
sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà,
góp phần vào cuộc đấu tranh cho hòa bình và chủ nghĩa xã hội thế giới".
[3]
Theo
tác giả Patricia Pelley, việc tôn vinh hay phê phán một ai đó ở thời kỳ này phải
được “trên" (tức lãnh đạo Đảng Cộng sản) quyết định. Các cán bộ sử học có
nhiệm vụ chủ yếu là phê bình và khen ngợi (blaming and praising), đặt ra chuẩn
mực ai là người hùng, ai là ác quỷ, ai là đấng trung quân, ai là kẻ phản bội.
Có
thể thấy rõ sau năm 1975, tư duy nhị nguyên trong viết sử đã đàn áp các tiếng
nói ở miền Nam như thế nào. Ví dụ, trong khi miền Nam tôn vinh Trần Trọng Kim
là nhà sử học hiện đại đầu tiên thì chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho rằng
Trần Trọng Kim thông đồng với Pháp và Nhật. Trong khi sử gia miền Nam mô tả sự
đa dạng của đất nước Việt Nam, còn sử gia miền Bắc cho rằng bản sắc địa phương
đã bị thực dân và đế quốc can thiệp quá nhiều.
Patricia
Pelley cũng dành nhiều trang để phân tích rằng với chính quyền Hà Nội, tất cả
nhóm dân tộc khác người Kinh sẽ là dân tộc thiểu số. Người nào không thuộc dân
tộc Kinh lại còn theo Pháp thì sẽ không bao giờ được nhắc đến.
Một
mặt, chính quyền miền Bắc lúc nào cũng tỏ ra rằng họ công nhận sự đa dạng sắc tộc.
Nhưng mặt khác, họ ấn định dân tộc Kinh là anh, các sắc tộc khác là em. Người
Kinh có trình độ và địa vị cao hơn nên sẽ khai hóa văn minh và định ra quy chuẩn
về lối sống cho các sắc tộc khác.
Patricia
Pelley chỉ ra rằng lịch sử Việt Nam chỉ còn có thể dẫn về những cuộc xung đột
giữa người Việt và ngoại xâm, chứ không được đề cập về những cuộc đàn áp, bạo lực
bên trong quốc gia. Thực chất, nhà nước đã độc quyền viết sử và cho rằng sử mà
họ công bố mới là lịch sử chính thống.
Trong
khi đó, những cán bộ viết sử phải làm theo chỉ thị chứ không phải bằng niềm đam
mê tri thức và sự nghiên cứu độc lập. Lịch sử đa dạng và phong phú đã bị những
mục đích chính trị tước đoạt.
Patricia
Pelley cũng khéo léo giải thích trong cuốn sách của mình vì sao Stalin được nhấn
mạnh trong lịch sử Việt Nam hậu thuộc địa, hay vì sao chế độ chiếm hữu nô lệ ở
Việt Nam xưa kia lại vô cùng nhạy cảm.
Ở
phần cuối của quyển sách, Patricia Pelley nói về đặc trưng của ngôn ngữ tưởng
niệm ở Việt Nam.
Nói
tóm lại, nếu đọc hết quyển sách này, chúng ta sẽ biết không phải ngẫu nhiên mà
một số tên tuổi bị lãng quên, thậm chí là bị trù dập trong sách sử tại Việt
Nam, vì các thông tin này đều hầu hết do đảng viên viết.
Chúng
ta cũng sẽ biết nghi ngờ tại sao mình phải ghi nhớ thời gian một số sự kiện hay
ngày tháng năm sinh của một nhân vật nào đó, từ khi chúng ta còn ngồi học cho tới
khi trở thành người lao động và được nghỉ nhân các dịp lễ kỷ niệm.
Việc
viết sử ở Việt Nam do “trên" chỉ định và có cơ quan thực hiện. Những trang
lịch sử ấy cứng nhắc vì người viết ra nó không có quyền suy nghĩ khác đi, còn
người học sử trên ghế nhà trường cũng không được khuyến khích phản biện lại những
kiến thức ấy.
---------------
Chú
thích
[1]
Patricia M. Pelley, Postcolonial Việtnam: New Histories of the National
Past, Duke University Press (26 Nov. 2002)
[2]
Ban này đặt dưới sự quản lý của Ban Tuyên huấn Trung ương trực thuộc Trung ương
Đảng. Từ năm 1957, chuyển sang chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Giáo dục. Năm
1959, bị giải thể để thành lập các tổ chức khác.
[3]
Xem thêm tại đây
No comments:
Post a Comment