Việt
Nam và Ba Lan thoát nghèo nhờ ngả sang tư bản
Thụy My - RFI
Đăng ngày: 28/04/2024 - 00:36
Năm 1990, Việt Nam là quốc gia nghèo nhất thế giới, tệ hơn cả
Somalie. Ba Lan lúc bức tường Berlin sụp đổ, cũng là một trong những nước nghèo
nhất châu Âu. Ngày nay Việt Nam và Ba Lan đã cất cánh ngoạn mục. L’Express nhận
định, đều thấm thía hậu quả của chủ nghĩa cộng sản và nền kinh tế kế hoạch, hai
nước này đã mạnh tay cải cách.
https://s.rfi.fr/media/display/ef71fe4c-04e5-11ef-b580-005056a97e36/w:980/p:16x9/hanoi_01.webp
Tỉ lệ người cực nghèo ở Việt Nam từ 80 % năm 1990 nay chỉ còn 5
%. Ảnh minh họa : Xe cộ lưu thông trên đường phố Hà Nội, ngày 29/03/2023. AP
- Hau Dinh
Cất cánh nhờ ra khỏi xiềng xích giáo điều
L'Express nói về « Bí mật phép lạ kinh tế của Việt Nam và Ba Lan
». Trong cuốn sách « Làm thế nào các nước ra khỏi đói nghèo
» (How nations escape poverty), nhà sử học Đức Rainer Zitelmann lý
giải vì sao hai quốc gia trên thoát nghèo chỉ trong vài năm.
Cách đây 30 năm, không ai dám nghĩ đến điều này. Năm 1990, Việt
Nam là quốc gia nghèo nhất thế giới. Với tổng sản phẩm nội địa (GDP) chỉ có 98
đô la trên đầu người, Việt Nam còn tệ hơn cả Somalie hay Sierra Leone. Ngày nay
đất nước này đã cất cánh ngoạn mục. Chưa đầy 5 % người Việt còn trong tình
trạng cực kỳ nghèo khổ (so với 80 % năm 1990), hai phần ba nay đã thuộc về giai
cấp trung lưu.
Ba Lan lúc bức tường Berlin sụp đổ, cũng là một trong những nước
nghèo nhất châu Âu. Người Ba Lan chỉ kiếm được chưa đầy 50 đô la mỗi tháng, năm
1987 chỉ có 12 % sở hữu điện thoại so với 99 % người Tây Đức. Vào thời đó,
đường, thịt, bơ, xà bông, thuốc lá đều bán phân phối theo sổ mua hàng. Ngay
trong các nước xã hội chủ nghĩa, Ba Lan cũng lẹt đẹt đứng sau với nợ công rất
lớn và tỉ lệ lạm phát 640 % trong năm 1989. Còn nay tổng sản phẩm nội địa tăng
gấp ba, tỉ lệ tăng trưởng 3,5 % khiến Ba Lan nằm trong số các nền kinh tế năng
động nhất châu Âu, tuổi thọ từ 71 tăng lên 78.
Tác giả Rainer Zitelmann nhắc nhở, cả hai dân tộc đều có quá khứ
đau buồn : cuộc chiến Đông Dương với Việt Nam, Đệ nhị Thế chiến và ách thống
trị của Liên Xô đối với Ba Lan. Nhưng Việt Nam đã biết hướng về tương lai, vượt
qua thù hận. Theo Pew Research Center năm 2014, 76 % người Việt có cái nhìn
tích cực về Hoa Kỳ.
Đã nếm mùi « chủ nghĩa xã hội », người dân ủng hộ tư
bản
Về kinh tế, Việt Nam và Ba Lan đều gánh chịu hậu quả của chủ
nghĩa cộng sản. Rút kinh nghiệm từ thất bại của kinh tế kế hoạch, họ đã cải
cách triệt để. Kể từ 1986 với công cuộc Đổi Mới (nguyên văn bằng tiếng Việt),
đảng cộng sản Việt Nam khuyến khích kinh tế thị trường.Tại Ba Lan, giảng viên
đại học Leszek Balcerowicz được bổ nhiệm làm bộ trưởng tài chánh năm 1989, khởi
đầu « liệu pháp sốc », số người làm việc trong lãnh vực tư nhân tăng vọt. Hai
nước cũng kết nối với kinh tế toàn cầu. Tại Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước
ngoài từ 7,6 tăng lên 16,1 tỉ đô la từ 2009 đến 2019. Với dân số 100 triệu, đây
là thị trường lớn cuối cùng ở châu Á có thể phát triển.
Đặc biệt cuốn sách của Rainer Zitelmann chỉ ra rằng hai nước đều
ủng hộ chủ nghĩa tư bản. Theo nghiên cứu của Ipsos-Mori tại 33 nước, Ba Lan có
số người ủng hộ tự do kinh tế nhiều hơn cả Hoa Kỳ, Hàn Quốc. Tại Việt Nam,
ngược với đa số nước khác, người dân gắn liền « tư bản chủ nghĩa » với những
khái niệm tích cực như « tăng tiến » (81 %), « sáng tạo » (80 %), « sản phẩm đa
dạng » (77 %) hay « thịnh vượng » (74 %). Người dân hai nước này cũng ít ganh
tị với người giàu.
Tất nhiên mọi thứ không phải đều màu hồng. Việt Nam vẫn là chế
độ độc tài độc đảng, về mặt chính thức thì theo chủ nghĩa mác-xít. Theo Minh
bạch Quốc tế, Việt Nam xếp thứ 87/180 nước năm 2021 dù có cải thiện. Tại Ba
Lan, đảng dân túy PiS hạn chế độc lập tư pháp trước khi Donald Tusk lên nắm
quyền trở lại. Nhưng tiến bộ ngoạn mục của Ba Lan và Việt Nam khẳng định lý
thuyết của Adam Smith cách đây 300 năm : tăng trưởng và tự do kinh tế là những
công cụ tốt nhất để gia tăng của cải đất nước, cải thiện đời sống người dân.
Đông Dương, thuộc địa bị quên lãng
Đúng 70 năm sau Điện Biên Phủ, Le Nouvel Obs nhân
dịp ra số báo đặc biệt về « Đông Dương, quá trình chiếm thuộc địa
bị lãng quên », đã trích đăng trong số tuần này bài viết về thời kỳ
Pháp từng là Nhà nước buôn thuốc phiện. Trên trang web cũng có một số bài khác
như « Hồ Chí Minh, người tập tành làm cách mạng ở Paris »,
« Câu chuyện về một cuộc xâm lược lâu dài » …
Tại Pháp, mặc dù năm 1916 đã có đạo luật đầu tiên cấm nhập cảng
ma túy, ở thuộc địa Đông Dương thuốc phiện trong suốt 60 năm vẫn là nguồn thu
nhập quan trọng cho mẫu quốc. Năm 1918, số tiền từ thuộc phiện đạt kỷ lục,
chiếm đến 42 % tổng thu. Nhà nước Pháp giữ độc quyền mua nguyên liệu và chế
biến ở Sài Gòn, có đến 4.000 điểm bán trên toàn quốc. Điều đáng ngạc nhiên là
bao bì thuốc phiện được đóng dấu chính thức kèm theo hình lá cờ tam tài. Hồ Chí
Minh từng tố cáo Pháp dùng rượu và thuốc phiện để làm yếu đi giống nòi Việt.
Khi chiến tranh Đông Dương nổ ra khoảng năm 1946, đa số người
Pháp kinh ngạc không thể hiểu vì sao « viên ngọc trai của đế quốc »
với những người dân thuộc địa ngoan ngoãn như vậy lại có thể nổi dậy. Họ tự hỏi
Hồ Chí Minh, nhân vật bắt đầu được bàn tán, từ đâu mà đến. Nhưng ông Hồ đã sống
ở Paris từ 20 năm trước, nơi ông trở thành người cộng sản, nhưng dưới một cái
tên khác. Xin vào làm công chức nhưng bị từ chối vì không có bằng cấp, người
thanh niên Nguyễn Tất Thành lại tiếp tục đi rửa chén trên tàu, rong ruổi đến
một số nước rồi đến 1919 quay lại Paris.
Ông bị mật thám theo dõi, nhưng không phải là người duy nhất, vì
phân nửa trong số 5.000 người Đông Dương sống trên đất Pháp đều nằm trong tầm
ngắm. Từ nay ông dùng tên « Nguyễn Ái Quốc », cái tên của tập thể ký
trong bản yêu sách. Phan Văn Trường, tiến sĩ luật đầu tiên của Đông Dương, có
một biệt thự ở quận 13 và cho những người đấu tranh cư ngụ. Một cuộc cãi vã nổ
ra (không rõ lý do), khiến năm 1921 Hồ Chí Minh phải chuyển sang quận 17, sống
trong một căn phòng nhỏ cạnh người thợ ảnh mà ông làm việc chung, nhưng rồi bị
đuổi đi vì những cơn ho của ông làm phiền người khác. Từ sau đại hội Tours
tháng 12/1920, Hồ Chí Minh trở thành một người cộng sản nhiệt thành.
Lớn tiếng tố cáo Trung Quốc, Philippines tạo được vị thế quốc tế
Cũng tại Đông Nam Á, L’Express chú ý đến việc
tổng thống Philippines Marcos Junior xích lại gần Hoa Kỳ và Nhật Bản, chống lại
Tập Cận Bình. Là con của nhà cựu độc tài, với bà mẹ Imelda sở hữu 3.000 đôi
giày, nhưng Ferdinand Marcos Jr, thường gọi là « Bongbong Marcos » đang
trở nên nổi tiếng trên trường quốc tế, khi không còn im lặng trước những khiêu
khích của tàu Trung Quốc.
Khác với người tiền nhiệm Rodrigo Duterte ve vãn Bắc Kinh, tổng
thống 66 tuổi đã lội ngược dòng ngoạn mục với chính sách « Minh
bạch » - lớn tiếng tố cáo với thế giới mỗi lần bị tấn công. Nhà nghiên cứu
Cleo Paskal của Quỹ bảo vệ các nền dân chủ nhận định, cách đối phó mới này được
tất cả các nước trong khu vực hoan nghênh, vì lâu nay họ vẫn dè dặt không dám
làm mất lòng Bắc Kinh. Ngay cả Ấn Độ cũng quan sát thái độ của
« Bongbong » trước Trung Quốc.
Chuyên gia Mỹ Grant Newsham thấy rằng Manila đã có bước tiến lớn
với hội nghị thượng đỉnh ba bên Mỹ-Nhật-Phi ở Washington hôm 11/04, « chỉ
trong một năm rưỡi đã làm vấn đề an ninh tiến triển hơn bao giờ hết ». Một
ngạc nhiên khác là phát biểu mạnh mẽ của thủ tướng Nhật Fumio Kishida. Điều
chưa từng có là cả ba nước đồng thời chỉ thẳng Bắc Kinh là nguồn gốc của tất cả
những vấn đề trong khu vực. Một hiệp định song phương vừa được ký giữa Manila
và Tokyo, thêm vào những thỏa thuận với Washington.
Ngoài ra Ấn Độ vừa giao các hỏa tiễn siêu thanh tầm xa cho
Philippines để tự vệ trước Trung Quốc. Nhật Bản cung cấp cho Manila tàu tuần
duyên, cố vấn quân sự và thông tin tình báo, bên cạnh đó Tokyo có thể tham gia
thỏa thuận AUKUS trong tương lai. Bongbong Marcos vừa cho phép Mỹ mở thêm bốn
căn cứ quân sự, và từ 22/04 đến 10/05 tổ chức tập trận thường niên Balikatan
(« vai kề vai » trong tiếng Tagalog) tập hợp 16.700 quân nhân của 14
nước trong đó có Pháp. Nhà Trung Quốc học Jean-Pierre Cabestan nhận xét Bắc
Kinh rất bực tức trước sự thân thiết Marcos-Biden vì lâu nay đã « bỏ
túi » được Duterte.
Số 61 tỉ đô la sẽ là gói viện trợ cuối cùng cho Ukraina ?
Về cuộc chiến tranh ở Ukraina, Le Point lưu ý
rằng viện trợ quân sự cho Ukraina mà Washington vừa thông qua rất có thể là gói
cuối cùng. Châu Âu sẽ phải làm gì ?
Giống như trong những bộ phim Viễn Tây, chàng cao bồi luôn xuất
hiện vào phút chót để cứu những người hùng đang nguy khốn. Hạ Viện Mỹ rốt cuộc
đã bỏ phiếu chấp thuận cấp 61 tỉ đô la quân viện cho Ukraina - đang khốn đốn từ
sáu tháng qua. Vừa đúng lúc : Giám đốc CIA, William Burns cảnh báo Kiev có
thể bại trận vì phải chiến đấu với rất ít đạn dược, hỏa tiễn phòng không trước
quân Nga đông đảo.
Tuy nhiên đây không phải là « xi-nê-ma » mà là đời
thực, nên sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng sau quyết định của Quốc Hội là một cái
kết có hậu. Rằng nhờ đó mà Ukraina sẽ chiến thắng, các nước phương Tây tránh
được thất bại chiến lược, châu Âu tiếp tục dựa vào sự bảo đảm an ninh của Hoa
Kỳ. Hôm 20/04, tuy quyết định có được là nhờ lá phiếu của cả hai đảng, nhưng
chỉ một thiểu số dân biểu Cộng Hòa (101) bỏ phiếu thuận và đa số chống (112).
Những kẻ ngốc hữu dụng của Kremlin không chỉ ngự ở Quốc Hội Pháp
hay Nghị Viện Châu Âu, mà cả ở Quốc Hội Hoa Kỳ. Càng gần đến bầu cử tổng thống,
dấu ấn của Donald Trump trên đảng Cộng Hòa càng mạnh hơn. Cần hiểu rằng rất có
thể gói quân viện này là cuối cùng nếu Trump đắc cử ngày 05/11.
Châu Âu chỉ còn sáu tháng để tăng tốc
Như vậy Nga sẽ đạt mục đích, như một văn bản của bộ Ngoại Giao
Nga được Washington Post tiết lộ hôm 17/04 : dùng cuộc chiến tranh ở
Ukraina để làm Hoa Kỳ và phương Tây yếu đi. Còn nếu ông Joe Biden tái đắc cử,
Kiev cũng không thể đặt trọn hy vọng. Tình hình lại như cũ : viện trợ quân
sự phương Tây luôn đến quá trễ, với số lượng hạn chế, giúp Ukraina cầm cự nhưng
không thể thắng. Bởi vì Biden và các nhà lãnh đạo phương Tây khác muốn tránh
một thất bại nhục nhã cho Vladimir Putin sẽ mở ra một thời kỳ bất định, một
cuộc chiến kéo dài sẽ dẫn đến Ukraina bị phân chia trên thực tế.
Le Point tự hỏi, có cần nhắc lại rằng dân tộc
Ukraina chiến đấu không chỉ cho tự do của mình mà còn của châu Âu ? Mike
Johnson, chủ tịch Hạ Viện, một người Kitô giáo bảo thủ theo phe Trump rốt cuộc
đã ngả sang ủng hộ Kiev, đã tóm lược rõ thế lưỡng nan của phương
Tây : « Tôi thà gởi đạn dược cho Ukraina còn hơn gởi đi những
chàng trai của chúng ta ».
Về phía châu Âu, có nguy cơ khoản viện trợ mới của Mỹ sẽ là cái
cớ để trì hoãn tiếp. Từ hai năm qua, Pháp chỉ chi viện tối thiểu, đáng xấu hổ
cho quốc gia tự coi là cường quốc quân sự hàng đầu của châu lục. Đức vẫn còn
mặc cảm quá khứ, sợ hãi xung đột. Paris muốn nắm quyền lãnh đạo châu Âu nhưng
ngân sách thâm hụt, lại thêm nỗi sợ cực hữu sẽ thắng thế trong ba năm tới. Châu
Âu chỉ còn sáu tháng trước cuộc bầu cử Mỹ, để đẩy nhanh sản xuất vũ khí đạn
dược, để chi viện cho Ukraina lâu dài và thay chân nếu Mỹ rút lui.
Chiến tranh chưa thể kết thúc một khi Putin vẫn nắm quyền
Tương tự, L’Express cho rằng « Châu
Âu cần chuyển giao hệ thống phòng không cho Ukraina, và phải thật nhanh ».
The Economist ví von, quẳng chiếc áo phao ra giúp người ta thoát được
mối nguy trước mắt, nhưng do còn ở xa bờ và nước thì lạnh, người đó vẫn có thể
chết chìm.
Courrier International trích dịch The
Atlantic, tỏ ý tiếc rằng sự chậm trễ của Quốc Hội Mỹ có cái giá phải
trả. Trong sáu tháng qua, Ukraina đã mất đi một số đất, nhiều sinh mạng và cơ
sở hạ tầng. Nếu có được phòng không thành phố Kharkiv chắc chắn vẫn còn các nhà
máy điện, những nạn nhân của các trận bom hàng ngày dội xuống Odessa lẽ ra vẫn
còn sống, những chiến binh bị hạn chế từng viên đạn nơi chiến hào không đến nỗi
tuyệt vọng.
Tin vui cho Ukraina là những vũ khí chi viện sẽ sớm đến tiền
tuyến. Khi đạn pháo tới nơi, Nga sẽ thấy rằng nếu tập trung quân và xe tăng để
tấn công là nguy hiểm. Hỏa tiễn để bắn chặn phải chờ lâu hơn mới có, nhưng khi
đó Nga sẽ không còn kiểm soát được bầu trời, ngoại trừ trên chiến tuyến. Tuy
nhiên gói viện trợ mới của Mỹ không đủ để Kiev giành lại các vùng lãnh thổ đã
bị cưỡng chiếm. Drone và vệ tinh khiến chiến trường thành « trong
suốt », tập trung quân và vũ khí dễ bị tiêu diệt.
Số 61 tỉ đô la viện trợ dùng cho đến 2025, và nếu quỹ còn tiền
đi nữa, một khi đắc cử Donald Trump có thể quyết định không dùng đến. Còn nếu
ông Joe Biden tiếp tục là tổng thống, cuộc đấu tranh của phe Dân Chủ lần tới sẽ
khó khăn hơn, khó có gói quân viện khác. Chiến tranh còn kéo dài, có thể là
nhiều năm, chưa bên nào có dấu hiệu bỏ cuộc. Về tâm trạng, The
Economist nhận thấy thật đáng kinh ngạc là người dân Ukraina vẫn bất
khuất. Một cuộc thăm dò mới đây cho thấy đến 73 % dân số sẵn sàng « chịu
đựng cho đến khi nào chiến thắng ».
Một số chỉ huy quân sự nghĩ rằng cuộc chiến còn tiếp tục khi nào
Putin vẫn còn sống. Theo The Atlantic, chiến tranh chỉ ngưng lại
khi nào người Nga ngừng chiến đấu vì hiểu rằng không có cửa thắng. Và chính
phương Tây phải thuyết phục họ cũng như nhóm dân biểu Mỹ thân Nga, là cuộc xâm
lăng của Putin nhất định sẽ thất bại.
Sáu tháng đã thay đổi hoàn toàn Israel
L’Express tuần này chạy tít trang
nhất « Nước Pháp ngập trong nợ nần », Le Nouvel Obs dành
hồ sơ cho nghệ sĩ da đen Omar Sy, một trong những nhân vật được người Pháp yêu
mến, Le Point bàn về hố ngăn cách giữa phái nam và phái
nữ. The Economist phân tích « Kinh tế Ấn Độ mạnh
như thế nào », Courrier International nói về « Israel :
Sáu tháng đã làm thay đổi tất cả ».
Về chiến dịch Gaza, mọi chỉ trích lâu nay tập trung vào thủ
tướng Israel. Nhưng theo Foreign Policy được Courrier
International trích dịch, ông Benjamin Netanyahou chỉ là vật tế thần,
vấn đề không phải từ ông mà từ cử tri Israel. Thực tế là đa số người Do Thái
nay ủng hộ bộ máy chiến tranh. Một xã hội bị chấn thương sâu sắc vì vụ khủng bố
quá dã man ngày 07/10/2023, đã trở nên cứng rắn hơn hẳn, ngả sang phía hữu.
Triết gia David Enoch nhận thấy sáu tháng qua, vết thẹo vẫn chưa thể lành. Có
cảm giác bị bỏ rơi, người Israel sẵn sàng một mình chiến đấu. Những người lính
được yêu chuộng : trên các ứng dụng hẹn hò, các cô gái tìm kiếm người yêu
là quân dự bị đã từng đăng ảnh phục vụ tại Gaza.
No comments:
Post a Comment