Thứ
Bảy, 5 tháng 5, 2018
Tổng
Thống Donald Trump là người tố cáo “tin bịa đặt” nhiều nhất. Có thể nói, ông là
người đưa hai chữ “fake news” lên thành ngôn ngữ thời thượng, từ cuộc tranh cử
năm 2016 đã thành phổ thông trên diễn đàn chính trị, và sau đó tiếp tục được sử
dụng thường xuyên, xưa tới nay chưa từng thấy.
“Fake
News” đã thành một câu trả lời ngắn gọn cho bất cứ người nào, già trẻ lớn bé,
khi nghe một tin tức bất lợi cho mình. Tuần trước tại sao con không nộp bài cho
cô giáo? Fake News! Hôm qua anh đi ăn với cô bạn cũ phải không? Fake News! Em
mua gì tại Tiffany mà thẻ tín dụng nó “chạc” $7,275? Fake News!
Thời
ông Barack Obama làm tổng thống những chữ này chưa thông dụng, mặc dù khá nhiều
tin bịa đặt về cá nhân ông. Obama không sinh ở nước Mỹ! Đáng lẽ, theo Hiến
Pháp, không được ứng cử tổng thống. Obama không theo Thiên Chúa Giáo, đích thị
là một người Hồi Giáo bí mật! Người ta có thể kiểm chứng bằng cách tới tra cứu
Sở Hộ Tịch ở Hawaii, nơi ông Obama khai là sinh quán, thì biết ông có sinh ra ở
Mỹ hay không. Hoặc phỏng vấn những người hàng xóm của ông trong 30, 40 năm qua
thì biết ông có đi lễ nhà thờ hay không.
Nhưng
cả hai tin bịa đặt trên đây được truyền bá suốt tám năm ông Obama tại chức, cả
sau khi ông đã công bố giấy khai sanh của mình. Mà chính ông tổng thống không
có nỗ lực đứng lên tố cáo, đả kích những người loan tin bịa đặt. Có lẽ vì ông
Obama, cũng như mọi người, biết rằng loan tin bịa đặt để bêu xấu nhau là chuyện
thường tình trong đời sống chính trị.
Bây
giờ tình trạng có khác. Có lẽ vì có nhiều “tin tức” xấu liên can tới ông Trump
được tung ra trong dư luận, nhiều hơn thời ông Obama. Từ lúc ông Trump chạy đua
với các chính trị gia khác trong đảng Cộng Hòa, họ đã đưa ra nhiều chuyện về
ông. Lúc ông tranh với bà Clinton, càng thêm nhiều chuyện. Ông Trump rất khôn
ngoan, đã dùng nhãn hiệu “tin bịa đặt” đánh tan các tin xấu, gạt bỏ hầu hết hay
tất cả các tin xấu. Ít nhất cũng xóa đi trong tai, trong trí nhớ của những cử
tri ông cố chinh phục.
Tưởng
rằng khi đã đắc cử, làm tổng thống thực thụ, ông Trump sẽ không cần nhắc đến những
chữ “tin bịa đặt” nữa. Nhưng không. Người Mỹ đang sống trong một “thời đại tin
bịa đặt!” Một thủ phạm là những phương tiện truyền thông đại chúng vừa nhanh, vừa
đa dạng, hấp dẫn, vừa được nhiều người, càng ngày càng nhiều, tham gia. Họ vừa
đọc tin vừa loan tin và chuyển tin cho người khác, đi khắp thế giới.
Bây
giờ mọi người đã biết gián điệp Nga đã tạo ra những “nguồn tin giả mạo,” đóng
vai người Mỹ, sử dụng Facebook truyền đi các tin tức bịa đặt rồi được hàng triệu,
hàng trăm triệu người Mỹ khác coi và chuyển cho nhau coi trong năm 2016. Gián
điệp Nga cũng làm công tác chuyên nghiệp đó ở Ukraine từ ba năm trước, rồi tiếp
tục làm “nghiệp vụ” trong những cuộc bầu cử ở Pháp, ở Đức năm ngoái. Nhờ những
báo động về nước Mỹ năm 2016 nên Pháp và Đức đã đề phòng, giảm bớt được mức tác
hại.
Nhưng
các tin bịa đặt trên Facebook cũng được giới truyền thông dòng chính loan tải
trước khi kiểm chứng đầy đủ. Những tin tức chỉ có 70% thực, còn 30% bịa đặt, đã
được truyền bá trọn gói! Có khi chỉ 30% thực, 70% bịa, cũng bỏ qua! Bởi vì họ
chịu áp lực của khán giả, của độc giả.
Các
độc giả than phiền: Tại sao trên mạng ai cũng nghe, cũng biết và rỉ tai nhau
tin đó, mà chúng tôi, “những độc giả trung thành của quý báo” nghe họ nói cứ
trơ mắt ếch ra, ngớ ngẩn, nhà quê, không biết cái gì cả! Các báo, đài, phải
đoán trước ý thích của khán giả, độc giả, mà loan tin “với sự dè dặt thường lệ!”
Nhưng thường họ quên luôn không giữ được chút dè dặt nào cả! Rồi lại phải cạnh
tranh với nhau nữa, ai loan tin sớm nhất sẽ nổi đình đám!
Người
ta thường nói các báo, các đài “hướng dẫn dư luận.” Trên nguyên tắc, báo nào
cũng tuyên bố sẽ loan tin trung thực, khách quan. Đó là điều lý tưởng. Nhưng sự
thật là chính những người làm truyền thông cũng bị dư luận thúc đẩy. Khi họ tìm
cách “đáp ứng” nhu cầu của độc giả và khán giả bốn phương.
Đài
Fox thiên hữu, cho nên thu hút các khán giả bảo thủ; nhưng càng được họ ủng hộ
thì đài này càng nghiêng về phía bảo thủ. Đài CNN đi ngược lại, nghiêng về phía
tả, được phe tả hoan nghênh rồi theo đà càng nghiêng hơn!
Có
thể đổ lỗi cho giới truyền thông, vì họ muốn chiều độc giả hoặc khán giả nên
không tôn trọng các quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Nhưng các khán giả và độc giả
có ý định đi tìm đọc tin, coi tin tức trung thực khách quan hay không?
Số
người như vậy hiếm lắm.
Nạn
tin giả, tin bịa đặt lan truyền (phần nhiều không bịa 100% nhưng chỉ cần 5%
cũng đủ tác hại), là do cả những người cung cấp tin lẫn “giới tiêu thụ” tin tức
cùng gây ra. Bên nọ thúc đẩy bên kia, lôi kéo nhau cùng… đi lạc!
Bởi
vì con người ta thường thích nghe, thích đọc những gì hợp với mình. Hợp với trí
khôn ngoan, hiểu biết, đạo lý của mình. Nhưng cũng phải phù hợp với niềm tin, sở
thích, thành kiến, tình yêu, ghét của họ nữa! Tin tức nào làm mình thất vọng,
mình buồn, sợ, lo lắng, không ai muốn tin! Trong chính trị, đối tượng của những
tình tự đó thường là các ứng cử viên, các ông tổng thống hay các đảng chính trị.
Ít người Mỹ nào hoàn toàn trung lập trong các tình tự đó.
Trước
khi đi mua xe hơi, người ta tìm hiểu rất kỹ, đọc bao nhiêu tài liệu nghiên cứu.
Mua nhà thì nhờ bao nhiêu người kiểm tra từ mái nhà đến cống rãnh; mời cả thầy
phong thủy. Nhưng khi bỏ phiếu chọn tổng thống hoặc đại biểu quốc hội, người ta
không “đọc kỹ” các chương trình tranh cử, không kiểm tra xem có thực hiện được
hay không, và không đối chiếu các chương trình khác nhau, để so sánh.
Khi
đọc báo, nghe đài, người ta cũng không thấy “đáng, bõ công” để bỏ thời giờ kiểm
chứng coi tin tức đúng hay sai. Cuộc đời ngắn ngủi, ai rỗi hơi làm những công
việc nhức đầu như vậy! Đọc báo, nghe đài, miễn thấy vừa ý mình là vui rồi!
Hai
giáo sư Brendan Nyhan và Jason Reifler ở hai đại học Mỹ đã nghiên cứu phản ứng
của độc giả khi cho họ đọc bản tin cũ về việc quân đội Mỹ đi truy tầm vũ khí hủy
diệt hàng loạt ở Iraq, sau khi chiếm đóng năm 2003. Trước đó, họ đã yêu cầu mọi
người cho biết một số thông tin cá nhân, để có thể xếp loại họ vào khuynh hướng
bảo thủ hay cấp tiến, trong cách xếp loại chính trị ở Mỹ.
Kết
quả cuộc phỏng vấn của hai giáo sư trên cho thấy những người càng bảo thủ thì
càng tin rằng quân Mỹ đã tìm thấy vũ khí hủy diệt hàng loạt. Sự thật là sau khi
tìm kiếm, Mỹ thấy Iraq không hề có các vũ khí nguyên tử, hóa học… Điều đặc biệt,
là sau khi cung cấp thêm tin tức cho mọi người biết kết quả khách quan đó, những
người cực kỳ bảo thủ vẫn không tin. Ngược lại, một số người càng tin vào ý kiến
đầu tiên của họ, một cách vững chắc hơn!
Cho
nên, khi đọc trên báo, khi nghe đài, chúng ta vẫn thấy người ta đưa ra những
“tin kiểm chứng bằng sự kiện” (fact-checkers) chúng ta đừng tưởng rằng những “sự
kiện” đó sẽ cải chính được các tin tức hoặc lời đồn đãi sai lầm. Phần lớn những
người tin vào fake news sẽ nhún vai, cho rằng chính các thứ “sự kiện” được nêu
ra để phản bác niềm tin của họ là… Fake News!
Căn
bệnh trên có vẻ rất trầm trọng. Có thể lan rộng và kéo dài. Những người chống Tổng
Thống Trump hay Tổng Thống Obama sẽ không tin những “tin tức” có vẻ thuận lợi
cho mỗi ông này. Ngược lại, những người ủng hộ các ông đó sẽ bác bỏ tất cả những
tin tức bất lợi cho họ. Cách giản dị nhất là gán cho nhãn hiệu Fake News!
Đây
là một đe dọa cho thể chế tự do dân chủ. Chế độ dân chủ dựa trên lựa chọn của
người dân. Những người có đủ tin tức, hiểu tin tức, để dựa vào đó quyết định,
theo quyền lợi của mình. Nếu chung quanh đầy tin bịa đặt thì người ta quyết định
ra sao? Có thể tin vào lựa chọn của đa số hay không?
Khi
nào xã hội bị chia rẽ trầm trọng, và căn bản của tình trạng chia rẽ là do tình
cảm, thành kiến gây ra, thì bệnh loan tin, nghe tin bịa đặt rất khó thuyên giảm.
Nhưng
xã hội loài người không phải lúc nào cũng chia rẽ, hoặc có chia rẽ nhưng không
dựa trên thành kiến và những tình tự xấu như thù hận, ganh ghét. Khi đó những
tin tức bịa đặt sẽ không có đất sống. Đó là mối hy vọng của các chế độ dân chủ
tự do. Tin vào tự do dân chủ tức là tin vào khả năng sống thiện của loài người.
No comments:
Post a Comment