29-5-2018
Reuters
nhận xét, một số lô dầu ngoài khơi Việt Nam lại nằm lọt trong phạm vi đường lưỡi
bò do Trung Quốc tự vẽ ra ở Biển Đông, để yêu sách chủ quyền hầu hết diện tích
vùng biển quan trọng này.
Giàn
khoan JDC Hakuryu-5 của tập đoàn Nga Rosneft và tàu hậu cần hoạt động ngoài
khơi Vũng Tàu, ngày 29/04/2018.
Tuần
trước, Rosneft Vietnam BV, chi nhánh của tập đoàn dầu khí Nga Rosneft tiến hành
khoan thăm dò tại một lô khí đốt ở ngoài khơi làm Bắc Kinh tức giận. Hôm
17/05/2018, Rosneft tuyên bố khu vực Biển Đông mà tập đoàn này có giấy phép
khai thác « nằm bên trong vùng lãnh hải của Việt Nam », khẳng định chỉ
tiến hành các hoạt động « trên thềm lục địa của Việt Nam ».
Bộ
Ngoại giao Việt Nam lập tức tuyên bố lô khí đốt 06.01 « hoàn toàn thuộc chủ
quyền và quyền tài phán của Việt Nam », cảnh báo Bắc Kinh phải tôn trọng chủ
quyền của nước mình.
Dầu
khí, nguồn thu quan trọng để Việt Nam phát triển kinh tế
Hồi
tháng Ba, Việt Nam đã phải cho ngưng một dự án khoan dầu ở gần mỏ Cá Rồng Đỏ
(Red Emperor) do áp lực của Trung Quốc. Đây là một phần của lô 07.03 tại khu vực
Bể Nam Côn Sơn ở ngoài khơi Vũng Tàu, có tiềm năng cung cấp gần 30.000 thùng dầu
và 60 triệu mét khối khí mỗi ngày. Tập đoàn Repsol của Tây Ban Nha đã chi trên
40 triệu đô la cho việc thăm dò mỏ này.
Trước
đó vào tháng 7/2017, Trung Quốc đe dọa tấn công các căn cứ quân sự của Việt Nam
tại Trường Sa, do Repsol chuẩn bị khoan thăm dò lô 163-3 ở bãi Tư Chính. Repsol
liên doanh với Mubadala Development Co. (Các tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất),
đã chi ra ít nhất 27 triệu đô la (có tin cho rằng đến 300 triệu đô la), nhưng
Hà Nội đành phải cho ngưng khoan, khi tướng Trung Quốc Phạm Trường Long giận dữ
bỏ về nước không tham gia hoạt động giao lưu quốc phòng Việt-Trung.
Chuyên
gia phân tích rủi ro Verisk Maplecroft nhận định, vụ Cá Rồng Đỏ là « một đòn
nặng nề cho kỹ nghệ thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam, và việc chính
quyền Hà Nội gọi thầu để tìm kiếm nguồn lợi dầu khí ngoài khơi mà Việt Nam hoàn
toàn có quyền hợp pháp, theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển ».
Lãnh
vực dầu khí rất quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam. Tập
đoàn Dầu khí Quốc doanh Việt Nam, tức PetroVietnam, cung cấp đến 20% tổng sản
phẩm nội địa (GDP), và chiếm 30% tổng thu nhập ngân sách của Hà Nội từ 1986 đến
2009.
Việt
Nam có trữ lượng từ 3,3 tỉ đến 4,4 tỉ tấn dầu thô và khí đốt tại vùng biển của
mình – theo PetroVietnam. Hiện nay mỗi năm tập đoàn này đang sản xuất ra 22 đến
33 triệu tấn dầu, từ các lô đang khai thác.
Theo
công ty tư vấn Wood Mackenzie, nếu đường lưỡi bò gồm 9 đoạn của Trung Quốc được
nối liền với nhau, thì sẽ cắt làm đôi hoặc nuốt gọn 67 lô dầu của Việt Nam.
Cũng theo Wood Mackenzie, thì có bốn trong số các lô này đang sản xuất ra dầu
thô, số còn lại đang ở các giai đoạn thăm dò hoặc khai thác khác nhau.
Công
nhân Việt Nam làm việc trên giàn khoan Harukyu-5 của Rosneft
Bắc
Kinh cố phá hoại phán quyết của Tòa Trọng tài trên thực tế
Yêu
sách của Trung Quốc tại Biển Đông chồng lấn lên vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam, Philippines, Malaysia và Brunei.
Bất
chấp sự phản đối kịch liệt của Bắc Kinh, Philippines vẫn tìm cách kiện đường lưỡi
bò Trung Quốc trước Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye, theo Công ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển. Năm thẩm phán quốc tế năm 2016 đã trao cho Manila chiến thắng
vang dội, qua việc bác bỏ yêu sách của Trung Quốc, tuyên bố đường 9 đoạn do Bắc
Kinh tạo ra để kiểm soát Biển Đông, là vô căn cứ.
Bắc
Kinh vốn từ chối tham gia tranh tụng, lu loa rằng phán quyết của Tòa Trọng tài
là trò hề, và tiếp tục đòi hỏi quyền tài phán trên hầu hết diện tích Biển Đông,
cho dù vẫn chưa nối liền 9 đoạn của đường lưỡi bò.
Trung
Quốc và các nước khác yêu sách chủ quyền Biển Đông đã có bàn bạc về việc cùng
khai thác năng lượng trên vùng biển tranh chấp, nhưng không đi đến đâu do vấn đề
chủ quyền.
Tháng
trước, Philippines cho biết đang tìm kiếm hợp tác với Trung Quốc trong vài
tháng để cùng thăm dò dầu khí tại Biển Đông.
Tuy
nhiên trong lúc Trung Quốc tỏ ra nhập nhằng, không cụ thể hóa các yêu sách,
vùng biển bao quanh các mỏ dầu ở đông nam Việt Nam từ lâu vẫn là điểm nóng.
Bắc
Kinh luôn cố tìm cách ngăn trở các hoạt động của Việt Nam, thông qua việc đe dọa
trong hậu trường, và đôi khi còn phô trương cơ bắp trên biển.
Việc
Trung Quốc đe dọa ngầm chính quyền Việt Nam đặc biệt dữ dội vào năm 2007 và
2008. Tập đoàn Mỹ ExxonMobil Corp không khuất phục trước áp lực, nhưng tập đoàn
Anh BP và các công ty dầu khí khác đành phải rút lui khỏi một số lô. Bắc Kinh
hăm dọa không bảo đảm cho khối tài sản 4,2 tỉ đô la của BP tại Hoa lục, cũng
như an toàn cho đội ngũ công nhân kỹ thuật của tập đoàn Anh tại khu vực « tranh
chấp ».
Ông
Ian Storey, chuyên gia về Biển Đông của ISEAS Yusof Ishak Institute ở Singapore
nhận xét, phản ứng của Trung Quốc trước việc Rosneft khoan thăm dò « hoàn
toàn là một thử nghiệm, xem Bắc Kinh có thể dấn tới đến đâu. Đó là cách thức của
Trung Quốc, nhằm cố gắng phá hoại toàn bộ phán quyết của Tòa Trọng tài năm 2016
trên thực tế ».
Quốc
tế hóa tranh chấp Biển Đông
Các
nhà ngoại giao Việt Nam và quốc tế đều cho rằng các nỗ lực của Hà Nội nhằm thu
hút các tập đoàn nước ngoài tham gia thăm dò, khai thác dầu khí, là một phần của
chiến lược đối phó với áp lực của Trung Quốc, qua việc « quốc tế hóa » tranh chấp
Biển Đông.
Vào
tháng Năm và Sáu năm 2011, Hà Nội chính thức phản đối các hành động của những
tàu « dân sự » Trung Quốc quấy nhiễu các tàu khảo sát địa chấn, thậm chí còn cắt
cả cáp của một tàu thăm dò Na Uy đang hợp đồng với PetroVietnam.
Căng
thẳng càng tăng lên vào tháng Năm năm 2014, các tàu tuần duyên và tàu cá của
hai bên đâm va, rượt đuổi nhau, sau khi tập đoàn CNOOC (Chinese National
Offshore Oil Corporation) của Trung Quốc cho kéo giàn khoan nước sâu khổng lồ Hải
Dương Thạch Du (Haiyang Shi You) 981 đến khoan thăm dò tại vùng biển Hoàng Sa.
Sau đó Bắc Kinh phải cho rút giàn khoan này đi, trước làn sóng biểu tình bạo động
chống Trung Quốc ở Việt Nam.
Theo
Tổng cục Thống kê, sản lượng dầu thô của Việt Nam trong năm đó là 15,53 triệu tấn.
Đến năm 2017, sản lượng bị giảm xuống chỉ còn 13,567 triệu tấn dầu thô, tức giảm
12,6%.
Tháng
Tư năm nay, PetroVietnam cho biết tình hình căng thẳng trên biển với Trung Quốc
đã ảnh hưởng đến việc thăm dò ngoài khơi và các hoạt động sản xuất trong năm
2018, khiến việc khoan khảo sát của Rosneft trở nên đặc biệt quan trọng.
Nga
sẽ không bị Trung Quốc kèn cựa ?
Nhờ
quan hệ đối tác với Liên Xô cũ, Việt Nam mới khởi động thăm dò trữ lượng dầu của
mình. Với logo mang ngôi sao vàng của Việt Nam và hình búa liềm của Liên Xô,
Liên doanh Dầu khí Việt-Xô tức Vietsovpetro đã được thành lập vào năm 1981.
Liên doanh này bắt đầu khảo sát thềm lục địa Việt Nam, và phát hiện ra mỏ dầu đầu
tiên của đất nước là mỏ Bạch Hổ năm 1984.
Anton
Tsvetov, nhà phân tích về Đông Nam Á của think tank độc lập Centre for
Strategic Research (Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược) ở Mátxcơva nhận định, trái
với những quốc gia khác, các lợi ích về dầu khí của Nga trong khu vực có vẻ được
để yên.
Theo
chuyên gia Tsvetov, ngoài các tuyên bố chính thức, khó thể có việc Trung Quốc
gây sức ép trực tiếp lên Rosneft hay chính phủ Nga về việc khoan thăm dò tại Việt
Nam mới đây. Ông nói : « Hiện nay Trung Quốc và Nga có mối quan hệ rất chặt
chẽ, và vấn đề năng lượng là ưu tiên hàng đầu. Cho nên tôi nghĩ rằng sẽ rất bất
thường nếu Trung Quốc gây rắc rối cho một tập đoàn dầu khí lớn như thế của Nga
».
No comments:
Post a Comment