Lê Mạnh Hùng
May
9, 2018
Thứ
Bảy vừa rồi, một buổi lễ gây nhiều tranh cãi đã xảy ra tại thành phố nhỏ Trier ở
Ðức. Có mặt để khánh thành một pho tượng đồng khổng lồ Karl Marx mà đảng Cộng Sản
Trung Cộng tặng kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông là Chủ Tịch Ủy Hội Châu Âu
Jean Claude Juncker. Ðiều mỉa mai là ông Juncker, một nhà chính trị “bourgeois”
bảo thủ nếu có sống dưới một chế độ Marxist thì số phận may mắn nhất mà ông có
thể hy vọng là một thời gian dài trong trại tập trung.
Khi
vào ngày 5 Tháng Năm, năm 1818, Heinrich và Henriette Marx cho cậu bé Karl ra
chào đời, chắc họ không thể nào tưởng tượng được các niềm hy vọng không tưởng
cũng như những khủng khiếp đẫm máu mà nay đã trở thành dính liền với cái tên
Karl Marx.
Hầu
hết các chế độ dựa trên các tư tưởng của Marx nay đã rơi vào sọt rác của lịch sử.
Vào lúc này những chế độ tự nhận mình là Marxist như Trung Cộng hay Việt Nam lại
chính là những chế độ thực hiện một hình thức tư bản chủ nghĩa tàn bạo nhất.
Nhưng cái tên Karl Marx vẫn còn là đồng nghĩa với cách mạng tàn bạo, lý tưởng
không tưởng và một chế độ độc tài toàn trị.
Ðối
với những người chỉ trích ông, Marx là một kẻ cuồng tín mà những tư tưởng đã
kích động tạo ra một số chế độ tàn bạo nhất trong lịch sử từ những trại cải tạo
của Stalin, Mao, Hồ cho đến các cánh đồng chết của Pol Pot ở Cambodia.
Mặc
dầu vậy nhưng tư tưởng của ông vẫn còn hấp dẫn rất nhiều người. Và hai cuốn
sách chính của ông, “Bản tuyên ngôn Cộng Sản” và “Das Kapital” vẫn còn được đọc
tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vì sao thế giới lại bị hấp dẫn bởi những
tư tưởng của một con người mà đã tạo ra bao nhiêu đau khổ cho nhân loại như vậy?
Ðó
là vì trên tất cả các nhà kinh tế và triết gia hiện đại, Marx vẫn là một trong
số nhỏ những nhà trí thức mà có thể tự hào là đã thay đổi cung cách mà chúng ta
nhìn thế giới. Và mặc dầu những tư tưởng của ông – tầm quan trọng của đấu tranh
giai cấp, nhu cầu cấp bách phải làm cách mạng, ước mơ một xã hội xã hội chủ
nghĩa trong đó mọi người đều bình đẳng – là những điều gây tranh cãi khổng lồ,
nhưng chúng ta không thể nào tránh được chúng. Quả thật, trên một phương diện
nào đó, chúng ta đều là những người Marxist.
Marx
không phải là một nhà khoa học như ông vẫn ước mong. Nhưng ông là một nhà tư tưởng
lớn: ông đưa ra một lý thuyết về xã hội bị thúc đẩy bởi những lực kinh tế –
không chỉ bởi riêng những phương tiện sản xuất mà bởi quan hệ giữa chủ và công
nhân – mà qua đó thúc đẩy xã hội phải bước qua một số giai đoạn phát triển. Ông
cũng là một cây bút xuất sắc. Ai mà có thể quên được nhận xét của ông rằng lịch
sử bao giờ cũng lập lại “lần đầu là một bi kịch, lần thứ hai là một trò hề.”
Các
tư tưởng của ông có tính cách tôn giáo hơn là khoa học – ta có thể gọi chúng là
tôn giáo soạn lại cho một thời đại thế quyền. Ông là một nhà tiên tri hậu kỳ tả
lại tiến trình sa ngã và cứu rỗi con người trong Thánh Kinh dưới một hình thức
mới. Sự sa ngã được biểu tượng bằng chủ nghĩa tư bản và nhân loại được cứu rỗi
bởi giai cấp vô sản nổi lên chống lại những kẻ bóc lột và thành lập một thiên
đường Cộng Sản nơi hạ giới.
Trong
những năm về sau những đệ tử của ông tìm cách mang những ý tưởng này vào hiện
thực. Trên nhiều phương diện, thế kỷ thứ 20 là thế kỷ của Chủ Thuyết Marx trong
hành động. Từ cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 cho đến khi Liên Bang Xô
Viết sụp đổ, hết chế độ này đến chế độ khác tìm cách thực hiện những tư tưởng
cách mạng của ông. Nhưng thay vì thiên đường nơi hạ giới họ chỉ làm ra những địa
ngục. Tại riêng Liên Xô, đệ tử ông, Stalin, giết chết ít nhất là 12 triệu người.
Tại Trung Cộng, Mao còn giết chết nhiều hơn nữa, nhiều chuyên gia cho rằng qua
những đợt thanh trừng, cải tạo và Cách Mạng Văn Hóa của các thập niên 50 và 60
khoảng 45 triệu người Trung Quốc đã thiệt mạng.
Tại
Việt Nam các cuộc đấu tố cải cách ruộng đất cũng đã giết chết ít nhất là khoảng
trên một triệu người.
Ðiển
hình rùng rợn nhất là Cambodia giữa năm 1975 và 1979 trong đó Khmer Ðỏ của Pol
Pot tìm cách thành lập một thiên đường Cộng Sản chỉ trong một sáng một chiều.
Chúng bắt toàn bộ dân chúng các thành phố của Cambodia về nhà quê. Giết tất cả
mọi thầy giáo, thương gia và các thành viên của giai cấp trung lưu và không tha
cả những người đeo kính cận. Trong việc theo đuổi thiên đường của Marx, những
người Khmer Ðỏ đã giết đến một phần tư dân số của Cambodia chỉ trong vòng bốn
năm. Chưa bao giờ ta có thể thấy một bằng chứng lạnh người hơn về những gì xảy
ra khi các tư tưởng không tưởng trở thành những hiện thực đẫm máu.
Người
ta có thể biện luận rằng đó không phải là lỗi ở Marx mà là vì các đệ tử của ông
hiểu lầm ông. Quả thật với tư cách là một con người luôn luôn bất đồng ý kiến
và không ngại ngùng nói lên cái gì mình nghĩ, nếu Marx có sống trong các chế độ
tự nhận là theo tư tưởng của ông có lẽ ông đã kết thúc cuộc sống trong một nấm
mồ nông với một viên đạn vào đầu.
Thế
nhưng tối hậu Marx cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi của các tông đồ mình.
Tuy rằng họ có thể khinh thị các người khác và tham nhũng, nhưng những người
lãnh đạo các quốc gia Cộng Sản không bao giờ hoài nghi rằng họ không phải là những
người Marxist chân chính. Mao tin tưởng rằng các tư tưởng của Marx phản ảnh
“cái gì tốt, đẹp và thiện lương nhất.” Thí dụ điển hình nhất là Stalin. Như sử
gia Mỹ Stephen Kotkin đã chỉ ra nhà độc tài Xô Viết này không phải là một con
quái vật. Ông chỉ trở thành một con quái vật vì ông là một người Marxist. Hồi
nhỏ Stalin đã đi tu vì muốn trở thành một giáo sĩ. Stalin không giết chết hàng
triệu người bởi vì ông thích giết. Ông làm vậy chỉ vì ông tin là lý thuyết của
Marx đòi hỏi phải làm vậy. Ông nghĩ rằng cái chết của họ là một cái giá đáng phải
trả cho việc xây dựng thiên đường Cộng Sản. Và khi làm vậy ông chỉ thực hiện
theo đúng những gì Marx viết. Năm 1848 sau cuộc cách mạng không thành tại Ðức,
Marx viết: “Chỉ có một cách mà những giẫy chết khủng bố của xã hội cũ và tiếng
khóc chào đời đẫm máu của một xã hội mới có thể làm ngắn đi, đơn giản hóa và tập
trung là dùng khủng bố cách mạng.”
Như
vậy vì sao bất chấp những thất bại của các chế độ dựa trên chủ nghĩa Marx và
tính tàn bạo bẩm sinh nằm trong chủ nghĩa này, các tư tưởng của Marx vẫn còn hấp
dẫn người ta vào thập niên thứ hai của thế kỷ 21 này?
Lý
do chính làm cho người ta còn tiếp tục quan tâm đến Marx là vì những ý tưởng của
ông nay đã trở lại có ý nghĩa đối với xã hội.
Hệ
thống tư bản theo Marx tự bản chất của nó là một hệ thống toàn cầu. Và điều đó
cũng đúng với hiện nay như là dưới thời Victoria mà Marx sống. Hai phát triển
đáng chú ý nhất của thời đại sau Thế Chiến Thứ Hai là việc tháo gỡ dần các rào
cản ngăn chặn việc di chuyển tự do của các yếu tố sản xuất – hàng hóa, tư bản
và ở một mức nào đó, lao động.
Trong
tiến trình bành trướng này, theo Marx, chế độ tư bản tạo ra một đạo quân lao động
nghèo đói sống nhờ từ công việc này đến công việc khác. Thế nhưng trong giai đoạn
hậu chiến điều đó trông có vẻ như là một sai lầm vớ vẩn. Thay vì “không có gì để
mất ngoài xiềng xích của họ” dân chúng lao động của thế giới, ít nhất tại các
nước giầu có đã có công việc an toàn, nhà cửa tại vùng ngoại ô và một tải sản
đáng kể.
Nhưng
cái sự đồng thuận vốn đã chuyển quyền lực từ tư bản sang lao động và tạo ra một
bước tiến lớn trong mức sống của xã hội đang phai mờ. Toàn cầu hóa và sự nổi
lên của một nền kinh tế gọi là kinh tế “gig” đã dẫn đến một hệ thống tư bản
trông giống như hệ thống tư bản mà Marx mô tả, trong đó người công nhân sống từ
công việc này sang công việc khác không có gì bảo đảm cho tương lai. Nền kinh tế
“gig” này đã khiến cho tại Anh giá nhà cao đến mức đa số thanh niên khó có hy vọng
gì mua được căn nhà của mình cho đến khi ít nhất là 45 tuổi. Còn tại Mỹ hầu hết
các công nhân Mỹ cho biết họ chỉ có vài trăm đô la trong trương mục của mình.
Giai cấp vô sản của Marx nay đang được tái tạo lại tại các nước trên thế giới.
Sự
chuyển ngược quyền lực từ lao động sang tư bản cuối cùng cũng đã tạo ra một phản
ứng tại các xã hội nhưng lần này là dân túy từ phía hữu. Thành ra không có gì lạ
khi mà cuốn sách kinh tế thành công nhất của mấy năm gần đây là cuốn “Capital
in the Twenty-First Century” của Thomas Piketty mà ngay chính cái tên cũng gợi
lại cuốn “tác phẩm tuyệt tác – magnum opus” của Marx và những quan tâm của ông
về bất công xã hội.
Trên
tấm bia của Marx tại nghĩa trang Highgate phía Bắc Luân Ðôn có khắc mấy hàng chữ
lấy từ tác phẩm của ông: “Các triết gia chỉ giải thích thế giới bằng cách này
hay cách khác. Vấn đề là phải thay đổi nó.”
Trong
quá khứ nhiều thế hệ thanh niên đã nghe theo tiếng gọi đó và nổi lên. Và trong
cái tự phụ là đã nắm được chân lý tuyệt đối, họ đã vứt bỏ không những lịch sử
và truyền thống mà còn cả hàng trăm triệu sinh mạng. Nhân danh tiến bộ và tất yếu
lịch sử họ đã giết không biết bao nhiêu đàn ông, đàn bà và trẻ em như những
sinh vật trong lò sát sinh.
Lịch
sử nay đã tái diễn lại như Marx nhận xét. Hy vọng rằng cũng giống như nhận xét
của ông nếu lần đầu là một bi kịch thì lần sau sẽ chỉ là một trò hề. (Lê
Mạnh Hùng)
No comments:
Post a Comment