Đặng Tiến
Cập nhật lần cuối 05/09/2012
Hoài niệm
Vũ Hoàng Chương
(1915-1976)
Vũ Hoàng Chương
(1915-1976)
Đặng
Tiến
Ngày 6/9 dương lịch là ngày giỗ VũHoàng Chương, mất tại
Thành PhốHồ Chí Minh, năm 1976 ; sau mấy tháng bị chính quyền bắt giam vào khám
Chí Hoà anh bị trọng bệnh, đưa về nhà một thời gian ngắn thì qua đời, vì ho
suyễn, thọ 62 tuổi.
Vũ Hoàng Chương sinh tại thành phố Nam Định năm 1915
(giấy tờ ghi 1916) trong một giađình khoa bảng giàu có ; tác giả của khoảng hai
mươi tác phẩm, chủ yếu là thơ, rồi đến kịch thơ, hồi ký, bài nói chuyện. Vũ Hoàng Chương là nhà thơ lớn
của đất nước, bắt đầu từ phong trào Thơ
Mới, với các tập Thơ Say (1940), Mây (1943), qua những truân chuyên của dân tộc
với Thơ Lửa (1948), Hoa Đăng (1959), Lửa Từ Bi (1963), và những biến chuyển
trong thi ca hiện đại. Vũ Hoàng Chương là một tác gia
lớn lao và quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà,
chiếm một địa vị riêng biệt trong các
trào lưu thi ca. Giữa những trầm luân của đất nước, tác phẩm của anh chưa được tìm hiểu toàn bộ và đánh giá đúng mức, ở miền Bắc cũng
như miền Nam, trước 1975, và trong nước cũng như ngoài nước những năm gần đây.
Trong nước, từ chính sách đổi mới, 1986, đã có lối nhìn
thoáng rộng hơn đối với phong trào Thơ Mới 1932-1945 và Vũ Hoàng Chương, ở một chừng mực giới hạn, cũng được đọc lại một
cách công bình hơn. Mới đây (1996) một sinh viên đại học TPHCM đã trình tiểu
luận tốt nghiệp về Vũ Hoàng Chương và giáo sư phản biện Hoàng Như Mai, nhà phê
bình văn học (sinh năm 1917) đã phê “ viết về nhà thơ Vũ Hoàng Chương không
phải dễ, người viết vừa phải có trình độ uyên bác nào đó, vừa phải có năng
khiếu nghệ thuật. Trên thực tế, khen thơ Vũ Hoàng Chương thì có đông đảo độc giả và các nhà nghiên cứu phê bình, nhưng trực tiếp viết ra
những lời đánh giá thì lại rất ít ai dám viết. Trên văn đàn, những bài, sách
nghiên cứu, phê bình thơ Vũ Hoàng Chương có bao nhiêu đâu. Sinh viên viết được bài tiểu luận tốt nghiệp
như thế này là đáng biểu dương. Tôi
đánh giá như vậy là với tư cách một người yêu quý thơ Vũ Hoàng Chương, và là người bạn thân của nhà thơ ”(25/6/1996) .
Chúng tôi ghi nhận lời phê, viết tay trên luận án, vì
nhiều lý do :
Dù bị vùi dập, Vũ Hoàng Chương vẫn có người yêu quí và
ngay thẳng nói lên niềm yêu quý ấy.
Ngưòi ấy có thể là một trí thức cao tuổi, là Hoàng Như
Mai, nhưng còn là những sinh viên trẻ tuổi.
Đoạn văn phản ánh đúng tình hình nghiên cứu về Vũ Hoàng
Chương, với những khó khăn khách quan về nhiều mặt.
Nhưng cũng có người tâm huyết vượt qua những định kiến
như Hoàng Thiệu Khang đã viết : “ cuộc nội sinh hoá văn học phương Tây, để có thể sản xuất ra một chất phương Đông đậm đà, phải qua tay Vũ Hoàng
Chương, Huy Cận, Đoàn phú Tứ, Thâm Tâm
.. . và cả Xuân Thu Nhã Tập ”1. Và Đỗ Đức Hiểu (tú
tài 1944 tại Hà Nội) trong sách Đổi Mới Phê Bình Văn Học đã phân tích ảnh hưởng
Baudelaire trong thơ Vũ Hoàng Chương ; hoặc Đỗ Lai Thuý (sinh 1948) đã có những trang về Vũ Hoàng Chương đào nguyên lạc lối2 thật hay, chủ yếu giải thích chất say như một chìa khoá giải mã đi vào thi giới Vũ Hoàng Chương, như một yếu tố của mỹ học và thi pháp ; và
tính cách suy đồi trong nghĩa văn học có mầm mống cách mạng và hiện đại.
Dĩnhiên cái nhìn theo phương pháp luận luôn luôn mang tính cách cục bộ, và tiếc
rằng Đỗ Lai Thuý chưa đọc nhiều thơ Vũ Hoàng Chương. Tuy vậy, những bài viết
mới mẻ như thế còn hiếm và đáng biểu dương.
Đồng thời, một số tác phẩm của VũHoàng Chương trước 1945
đã
được in lại3.
Những tác phẩm về sau, dường như chỉ in lại hồi
ký Ta
đã làm chi đời Ta (nxb Hội nhà Văn 1993 TPHCM).
Nhưng nói chung
những thành kiến còn đè nặng trên sự nghiệp văn học của Vũ Hoàng Chương, có thể
từ bài viết của Chế Lan Viên (tháng 4/1960) phê phán tập thơ
Hoa Đăng, bất công và độc ác4. Có thể nói, bài này, ở chừng mực nào đó – tôi cân nhắc–
ở chừng mực nào đó, đã đưa đến thảm kịch Vũ
Hoàng Chương năm 1976. Bài của Xuân Diệu ân cần với Vũ Hoàng Chương, trong mục
Tiếng Thơ trên báo Văn Nghệ số 6/1948 không thấy in lại trong sách (NXB Văn
Nghệ, 1954). Thỉnh thoảng lắm mới có người nhắc đến tình cũ nghĩa xưa như Tô
Hoài trong Tự Truyện, hay mới đây trong Chiều Chiều5.
Còn lại là những phê phán gay gắt kể cả Lê Đình Kỵ, là người tương đối cởi mở với thơ tiền chiến, cũng đánh giá Vũ Hoàng Chương là “ bi quan , bế tắc,
buông thả, tự huỷ, truỵ lạc ”...6. Ở đây chúng tôi không nhắc tới Phan Cự Đệ vì sách Phong trào Thơ Mới viết đã lâu (1966), và từ ấyđến nay ông ta cũng có tiến bộ. Chỉ ghi nhận
những lời mới đây (2/1989) của Hà Minh Đức, đương kim viện trưởng viện Văn Học,
xem Vũ Hoàng Chương là“ cây bút có tài năng nhưng nằm trong dòng nước đục (
.. .) chẳng có gì để nói thêm về những câu thơ như một con thuyền bập bầnh trôi
trên dòng nước đục ”7. Hà Minh Đức chỉ muốn
so sánh thơ Vũ
Hoàng Chương những năm 1940, 1943 với những nguồn thơ
khác, nhưng câu chữ vẫn không hợp với một đất nước đang hô hào đổi mới, mở cửa,
giao lưu. Dù sao, “ đục trong thân cũng là thân ” , cụ Nguyễn Du bảo vậy, và Tết Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương cũng có bài
thơ nhan đề như vậy.
Và dù sao, thời gian cũng sẽ gạn đục khơi trong.
Biết ai làđục biết ai trong . . .
Năm 1969, Vũ Hoàng Chương lên
55 tuổi, tự hào mình thọ hơn Khổng Minh... 1 tuổi, có bài thơ :
Chữ thọvừa ăn đứt Ngoạ Long
Bến nằm dư biết đục hay trong ...
(...) Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
Để ngấn vàng gieo chợt rối vòng ...
Bến nằm dư biết đục hay trong ...
(...) Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
Để ngấn vàng gieo chợt rối vòng ...
Một ánh trăng giữa bát Trận Đồ. Trong cảnh đá chạy cát bay, đôi tiếng thị phi, hoặc lời ca tụng, có nghĩa lý gì ?
Trước đây, nhà xuất
bản An Tiêm, Paris, trong dự án dài hạn, muốn ấn hành một Tuyển Tập Vũ Hoàng
Chương, có thể nhích lên Toàn Tập, yêu cầu tôi sưu tầm, biên tập và giới thiệu,
với sự thoả
thuận của chị Vũ Hoàng Chương. Nay anh Thanh Tuệ chủ
trương An Tiêm đã qua đời... Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, thời giám đốc Nguyễn
Văn Lưu có lúc cũng đánh tiếng, Nhưng việc không đến đâu, lý do, khách quan và
chủ quan, thì nhiều.
Chút nghĩa cũ càng, nhân ngày giỗ anh Chương, mới có bài
này để
cập nhật hoá hoàn cảnh văn học của Vũ Hoàng Chương trong
hiện tình
đất nước.
Nén hương lòng. Xa xôi và cách trở. Không phải để nghị
luận hay tranh luận với ai.
Đặng Tiến
Paris, nhân ngày giỗ Vũ Hoàng Chương
6/9/1999, cập nhật 2012
6/9/1999, cập nhật 2012
Đường
Thi
chuyển sang thơ Việt
Xưa hạc vàng bay vút bóng người
Đây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi mất
Trắng một màu mây vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống đâu quê quán
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi.
Đây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi mất
Trắng một màu mây vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống đâu quê quán
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi.
Vũ
Hoàng Chương
xa tặng Đặng Tiến
6/12/1975
6/12/1975
Bài
họa
Hạc xưa sải cánh rợp quê người
Hạc hút - lầu Hoàng hạt nắng rơi
Hạc vọng ThơSay vờn ngất ngất
Mây giăng HoaĐăng hoài đời đời
Hán DươngThơ Lửa vùi tro mộng
Anh Vũ Rừng Phong khép cuộc chơi
Chiều sập, ôi nhà, ôi cố quận,
Hận người sóng gọi sông thôi ơi.
Hạc hút - lầu Hoàng hạt nắng rơi
Hạc vọng ThơSay vờn ngất ngất
Mây giăng HoaĐăng hoài đời đời
Hán DươngThơ Lửa vùi tro mộng
Anh Vũ Rừng Phong khép cuộc chơi
Chiều sập, ôi nhà, ôi cố quận,
Hận người sóng gọi sông thôi ơi.
Đặng
Tiến
Paris, nhân ngày giỗVũ Hoàng Chương
6/9/1999
6/9/1999
3Lại Nguyên Ân, trên Tạp Chí Văn Học, số 2.1998, cho biết nxb Văn Học Hà
Nội, 1991, có ra bộ sách 12 tập Thơ Mới đầu tiên trong đó có Mâycủa VHC.
1995 ra bộ sách Thơ Mới Tác Gia và Tác Phẩm gồm có 15 tập với 15 tác giả, có
VHC.
Nxb Hội Nhà Văn, TPHCM 1992, có tái bản Mây của VHC trong
1 bộ gồm nhiều thi tập.
5Tô Hoài, Tự Truyện, 1985, trang 263. Cát Bụi Chân Ai, 1992,
trang 153 . Chiều Chiều, 1999, trang 21 và 25
No comments:
Post a Comment