Trần Minh Thảo
2-9-2012
Thôn
tính Biển Đông, xâm lược Việt Nam, gây sự với các lân bang, cấu kết với các
loại nhà nước bất hảo nhưng giàu tài nguyên khoáng sản, hà khắc với nhân dân
chứng tỏ nhà nước Trung Quốc là thứ nhà nước hung bạo ở bên trong, chuyên bảo
kê các chế độ chính trị bạo ngược ở bên ngoài, sẵn sàng dùng vũ lực thôn tính
đất đai nhằm thể hiện một thứ ý thức dân tộc bệnh hoạn vì lợi ích bè đảng. Do
đó, Trung Quốc đã thúc đẩy loài người tiến bộ, văn minh (trong đó có cả nhân
dân Trung Quốc) đứng chung một chiến tuyến với mục tiêu loại bỏ vĩnh viễn thứ
nhà nước tàn độc, phản động ra khỏi xã hội loài người văn minh.
Bản
đồ Biển Đông (DR)
Đã
xuất hiện những vận động cho việc hình thành một ‘mặt trận liên hiệp’ chống tai
hoạ của chủ nghĩa bành trướng Trung Nam Hải. Nhiều nhà khoa học, nhà nghiên
cứu, giới trí thức quốc tế (có cả trí thức Trung Quốc) phản đối đường lưỡi bò
đứt khúc trên biển Đông mà hậu quả là Trung Quốc bị ghét bỏ. Đã có các cuộc
biểu tình chống bành trướng của nhân dân Việt Nam, nhân dân Philippines hoặc
liên kết biểu tình của kiều dân Việt, Philippines ở Mỹ, Tây Âu, Nhật… Nhân dân
Việt Nam đã lên tiếng ủng hộ nhân dân Philippines chống Trung quốc xâm lấn bãi
cạn Scarborouth. Không có nhà khoa học, nhà nghiên cứu quốc tế nào nói đường
chín đoạn do Trung Quốc vẽ ra là có tính lịch sử, tính khoa học. Có những hành
động cụ thể mà hiệu quả cao: nhân dân ở các quốc gia văn minh đã cân nhắc cẩn
thận việc sử dụng hàng hoá Trung Quốc do gian lận và không bảo đảm phẩm chất,
gây hại cho môi trường và sức khoẻ con người.
Trung
Quốc nói Hoa kỳ có âm mưu bao vây Trung Quốc bằng quân sự, kinh tế, chính trị
nhưng thực tế đã hình thành một vòng vây dân sự toàn cầu do cách làm xấu xa của
Bắc Kinh.
Đặc
biệt, tại các quốc gia chậm phát triển bị cai quản bởi thứ nhà nước tàn độc,
hung đồ rất giống với kiểu nhà nước XHCN Trung Quốc, nhân dân dù bị ngoại nhân
bóc lột, bị quyền lực cai trị nội địa đàn áp thô bạo cũng đã có những phản ứng
tự phát gay gắt với đội quân khai thác thuộc địa kiểu thực dân mới đến từ Trung
Quốc. ‘Cách mạng hoa’ ở Bắc Phi, Trung Đông, phản ứng của dân nghèo châu Phi
đối với ách hành xử kiểu thực dân cũ của Trung Quốc là một bày tỏ cho thấy
quyết tâm không chấp nhận mô hình Bắc Kinh.
Việt
Nam – bị Trung Quốc xâm hại nhiều nhất – có mặt trong thế trận bao vây, cô lập
‘mô hình phản động Bắc Kinh’ không?
Nhiều học giả, trí thức trong, ngoài
nước đã khuyến cáo Việt nam nên đưa vấn đề Biển Đông ra Tòa án quốc tế như
Philippines nhưng không được Đảng quan tâm thực hiện. Nhiều kiến nghị của người
dân trước các thủ đoạn đen tối về kinh tế, tài chính, thương mại, an ninh quốc
phòng… của Trung Quốc cũng không được Đảng, Nhà nước thành khẩn tiếp thu. Việc
phải làm mà không làm chứng tỏ Việt Nam không có mặt trong thế trận bao vây của
loài người văn minh tiến bộ.
Việt
nam không có mặt trong thế trận đó vì Đảng, Nhà nước sợ dân và sợ cả bạn vàng
16 chữ nên đành quay lưng với thế giới văn minh?
Để
thoát khỏi nỗi sợ, để không còn vì nỗi sợ đó mà phải hành xử kiểu ‘côn đồ’ với
dân như có ý kiến cho là ‘hèn với giặc ác với dân’ thì phải làm gì?
a)
Cần phải bạch hóa quá
khứ (bạch hóa Thành Đô): Người dân không tin Đảng khi những cam kết
Trung-Việt mờ ám không được bạch hoá (từ công hàm 1958 đến thỏa thuận Thành Đô
1990). Những cam kết Trung-Việt đen tối, nhục nhã không chỉ làm dân thường lo
lắng, hoài nghi mà ngay cả đảng viên cũng hoài nghi phẩm chất chính trị của
lãnh đạo đảng, nhà nước. Thế giới cũng hoài nghi thực tâm chính trị của Việt
Nam. Phải bạch hoá các “đồng thuận anh em cùng chế độ” và phải làm rõ ai phải
chịu trách nhiệm về các cam kết Việt-Trung, ai đang tiếp tục thực hiện các cam
kết ‘đồng thuận anh em’. Phải tiến hành công việc chỉnh đốn Đảng trên quan điểm
thanh lý triệt để ‘nợ nần chính trị’ liên quan đến chủ nghĩa bành trướng giả
trang chủ nghĩa xã hội thì người dân mới cùng Đảng hạ quyết tâm đánh giặc đến
cùng. Trong lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam chưa bao giờ người dân chịu
hiến xương máu cho lực lượng chính trị có những khuất tất, bị hoài nghi là tay
sai của giặc.
Đồng
thuận Thành Đô là đồng thuận gì? Đó là hoài nghi chính trị cần bạch hóa. Không
‘bạch hoá Thành Đô’ thì vẫn cứ ‘ác với dân hèn với giặc’ dẫn đến mất nước.
b)
Cần phải thủ tiêu
đường lối, chủ trương, chính sách… dính chặt với chủ nghĩa bành trướng. Khi đã có đủ dũng
khí chính trị bạch hoá các cam kết sai trái giữa lãnh đạo hai đảng hai nhà nước
Trung-Việt thì việc tất yếu tiếp theo, phải làm ngay là thủ tiêu mọi chủ
trương, chính sách kiểu ‘mô hình XHCN Trung Quốc’ mà Việt Nam đã học theo, hoặc
bị buộc phải làm theo, cụ thể là các chủ trương, chính sách hay các hành vi vi
phạm luật, hành xử ‘côn đồ’ trong các lãnh vực chính trị, kinh tế, pháp luật,
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, đất đai, các quyền dân sự,… kể cả mô hình tổ chức
bộ máy cai trị rập khuôn bộ máy cai trị thân tộc, cánh hẩu kiểu Bắc Kinh. Có
thể một vài phần tử trong đảng sẽ có phản ứng quyết liệt vì cho làm như vậy là
chống chủ nghĩa xã hội, lật đổ chế độ (với những người này thì độc lập, tự chủ,
toàn vẹn lãnh thổ, văn minh, tiến bộ là sản phẩm phản cách mạng, âm mưu diễn
biến hòa bình của thế lực thù địch). Nhưng nếu không làm vậy thì không thể nào
có khối đoàn kết toàn dân chống bành trướng xâm lược do quyền lực cai trị trong
con mắt người dân là thế lực tay sai.
Trong
hai việc phải làm nói trên thì việc bạch hóa quá khứ – tức là tự phê bình (a)
có thể chỉ làm trong nội bộ Đảng nhưng việc thay da đổi thịt (b) thì không thể
không làm công khai, triệt để.
Người
dân Việt rất cao thượng, không tiểu khí miễn là đối phương có những hành động
thực tế chứng tỏ thực tâm dứt khoát đoạn tuyệt với nhửng sai lầm trong quá khứ.
Sau chiến thắng xâm lược Nguyên Mông, vua Trần đã ứng xử với tầm văn hoá cao
như vậy.
Về
công hàm 1958 và hội nghị thành đô 1990. Trong các yêu cầu bạch hoá quá khứ, có hai
yêu cầu cụ thể: công hàm năm 1958 và đồng thuận ở hội nghị Thành Đô năm 1990.
Thực
tế lịch sử đã xác nhận lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã không coi Công hàm 1958 có
tính pháp lý khi TBT Lê Duẩn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bộ Quốc phòng Việt Nam
đưa quân ra tiếp quản Trường Sa năm 1975, tiếp theo là cuộc chiến biên giới
1978,1979. Thứ cần bạch hoá triệt để là đồng thuận trong hội nghị Thành Đô 1990
mà có ý kiến cho là về thực chất lãnh đạo Việt Nam đã dâng Tổ quốc cho Đảng
Cộng sản Trung Quốc vì chung lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thực chất là bán nước
cầu vinh. Thực hư thế nào, Đảng không thể cứ giấu giếm, tiếp tục thực hiện đồng
thuận giữa lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước mà thực chất là biến Việt Nam thành
chư hầu của bành trướng đại Hán. Cho rằng mất biển đảo là do Công hàm 1958 là
cách đổ lỗi cho người đã chết. Chính Hội nghị Thành Đô mới là nguyên nhân gây
ra hậu quả mất nước hôm nay. Tức là những người còn sống chủ động làm sai.
Nhưng cũng có thể suy ra do có Công hàm 1958 nên hậu bối của Đảng mới học theo
tiền nhân để có thỏa thuận Thành Đô, chỉ là làm theo cách của người trước,
không phải là tùy tiện của hậu thế. Do đó, bạch hoá cả hai (Công hàm 1958 và
đồng thuận Thành Đô) là việc phải làm.
Phải
đưa nhiệm vụ bạch hoá quá khứ này vào đợt chỉnh đốn đảng hiện nay, thực hiện
bạch hoá triệt để, thành khẩn, dứt khoát từ bỏ rập khuôn mô hình XHCN kiểu bành
trướng mới mong bảo vệ được sinh mệnh chính trị của Đảng, phải bạch hóa quá khứ
và thay đổi tận gốc mới có khối đại đoàn kết toàn dân, mới giữ được tư thế lãnh
đạo cuộc kháng chiến cứu nước. Bạch hoá sai lầm chính trị còn chứng tỏ Đảng có
bản lãnh, có tầm nhìn, có tâm huyết với nền độc lập tự chủ.
Là
người Việt Nam, tôi tin tưởng cuộc vận động chống bá quyền bành trướng của nhân
loại tiến bộ sẽ thành công, loại bỏ vĩnh viễn chế độ chính trị tàn bạo; sẽ có
một Việt Nam tự cường hùng mạnh và một Trung Quốc dân chủ, văn minh. Nhân dân
Trung Quốc sẽ giành lại được những quyền làm người chính đáng dù cho nhân dân
Việt Nam do nhiều áp lực không được tham dự công khai vào công cuộc đấu tranh
chung của loài người tiến bộ.
T.M.T.
Tác
giả gửi trực tiếp cho BVN
--------------------------------------------------------------
BÀI LIÊN QUAN :
30-8-2012
30-8-2012
No comments:
Post a Comment