Sunday, 23 September 2012

TRAO ĐỔI VỚI NHÀ NGHIÊN CỨU NGUYỄN TRẦN BẠT về VẤN ĐỀ TỰ DO (Trần Mạnh Hảo)





Trần Mạnh Hảo
Đăng bởi: Nguyễn Tường Thụy 2012 | 22/09/2012

Ông Philipp Rösler Bộ trưởng bộ kinh tế Cộng hòa Liên bang Đức, kiêm Phó Thủ tướng Đức, trong buổi gặp gỡ sinh viên Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội ngày 19-9-2012, đã nhấn mạnh vấn đề then chốt của nền kinh tế Việt Nam nằm trong hai tiếng TỰ DO : “không có tự do thì làm sao người ta có thể suy nghĩ, quyết định và hành động một cách tự chủ đầy trách nhiệm được“. Ông Rosler nhấn mạnh : “ Việt Nam cần phải để nhân dân có quyền tự do dân chủ thì mới phát triển được nền kinh tế”. Trích bài :”Bộ trưởng Rösler tại đại học Hà Nội: “Việt Nam cần nhiều cải cách dân chủ

Xem ra, lúc này, TỰ DO thiết yếu với con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam như dưỡng khí. Không có tự do, dân tộc ta, đất nước ta hầu như không có gì cả. Ông Hồ Chí Minh cũng có lúc phải thốt ra : “ Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “ Có độc lập mà không có tự do hạnh phúc, coi như không có gì cả”…

Trong lúc quyền tự do của người dân Việt Nam đang bị nhà nước hạn chế : hiếp pháp cho tự do báo chí nhưng dân không được ra báo tư; hiến pháp cho biểu tình nhưng nếu người dân ( ông chủ) biểu tình yêu nước sẽ bị công an nhà nước ( nô bộc) đàn áp bắt bỏ tù; hiến pháp cho tự do lập hội nhưng anh Điếu Cày vừa lập câu lạc bộ báo chí tự do mới có ba thành viên ( Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Anh Ba Sài Gòn Phan Thanh Hải) cả ba người liền bị bắt giam lâu ngày, sẽ ra tòa ngày 24-9-2012 sắp tới); hiếp pháp cho tự do tôn giáo nhưng một số nhà sư, một số cha cố, mục sư, thầy chùa của đạo Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Cao đài, Hòa hảo và giáo dân vẫn bị đàn áp bắt bớ; hiếp pháp cho dân được tự do cư trú nhưng chính sách hộ khẩu lại ngăn cấm…thì việc nhà nghiên cứu Nguyễn Trần Bạt viết nhiều bài bàn về vấn đề TỰ DO thật đáng quý biết bao.

Ông Nguyễn Trần Bạt, trong thời gian vừa qua, nổi lên như một hiện tượng hiếm có trong các vấn đề lý luận từ văn hóa đến chính trị, từ triết học đến kinh tế…như một nhà nghiên cứu lý luận nổi bật nhất của Việt Nam hôm nay, với gần chục tập sách dày cộm được nhà nước cho phép xuất bản công khai. Chỉ đọc qua một số mệnh đề rút gọn được ông Nguyễn Trần Bạt in trên mép gấp bìa bốn các cuốn sách của mình, cũng thấy ông dám dũng cảm thách thức nhà đương cục cộng sản Việt Nam, đặng công phá những lô cốt tuyên giáo đầy rào gai, đầy gươm giáo búa liềm kinh khiếp, cũng đủ thấy bản lĩnh của ông ghê gớm nhường nào; và cũng thấy nhà cầm quyền đã nhân nhượng khá nhiều để cho sách ông được in và phát hành công khai trên danh nghĩa lề phải…

Khi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vốn coi trí thức là cục phân ( Mao Trạch Đông nhắc lại lời Lenin trong thư gửi Goocki), cấm đối lập, tức cấm các ý trái chiều, trái với ý nhà nước, nhất là cấm đối lập chính trị ( mà đối lập là linh hồn biện chứng pháp Marxism), Nguyễn Trần Bạt dám thách thức chính quyền để đưa ra định nghĩa về trí thức như sau : “Tiêu chuẩn thứ nhất là trí thức phải cầm quyền về mặt lẽ phải, thứ hai là trí thức phải luôn luôn đối lập với nhà cầm quyền, đối lập với quá khứ, đối lập với nhau và đối lập với các yếu tố bên ngoài” ( mép gấp bìa bốn cuốn : “ Nguyễn Trần Bạt – Đối thoại với tương lai- tập 2-NXB Hội nhà văn 3-2011)
Khi nhà cầm quyền coi chính trị là thống soái, Nguyễn Trần Bạt vạch ra nền giáo dục Việt Nam sa đọa là vì nó bị chính trị hóa, như sau : “Cải cách giáo dục về bản chất là phi chính trị hóa giáo dục, trả lại cho học đường tất cả những sự yên tĩnh của nó” ( sách đã dẫn)

Trên mép gấp bìa bốn cuốn “Cải cách và sự phát triển” ( NXB Hội Nhà Văn 6-2011), Nguyễn Trần Bạt vạch ra một mệnh đề sống còn của đảng cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam là khi nền chính trị tuyệt đối nằm trong tay một đảng cầm quyền thì nhân dân thực chất không có một chút quyền lực nào : “ Nếu xã hội tiếp tục là sở hữu của các tập đoàn chính trị, thậm chí người ta xây dựng các pháp chế để hợp pháp hóa vai trò làm chủ xã hội về mặt chính trị của các tập đoàn chính trị thì tức là không có nhân dân trong đó, tức là không có dân chủ”…

Chúng ta có thể tìm thấy trong ngót chục cuốn sách của Nguyễn Trần Bạt những mệnh đề chính trị xã hội ngược với các giáo điều cộng sản đang tồn tại trên mặt lý thuyết ở nước ta hôm nay. Có thể nói, lần đầu tiên, ở Việt Nam sau năm 1975 đến nay, có một tác giả viết sách thực thi vai trò trí thức phản biện xã hội, dám đụng đến các vấn đề cốt lõi của chế độ độc đảng, độc quyền, lại hi hữu được nhà cầm quyền cho xuất bản rộng rãi- đó là tác giả Nguyễn Trần Bạt. Ông là người học được tinh thần đối lập của Marx để viết ra nhiều cuốn sách như một nhà nghiên cứu, một lý luận gia đối lập, nơi chính quyền tuyệt đối cấm đối lập. Đó chính là thành công lớn của Nguyễn Trần Bạt. Ông đã, đang và sẽ được lịch sử vinh danh vì dám dũng cảm nói lên tiếng nói chân thực của người trí thức trước các vấn đề chưa có lối thoát của xã hội, góp phần khai mở dân trí. Chúng tôi đánh giá rất cao công trạng này của ông.

Tất nhiên, trong quá trình viết ra những cuốn sách dày cộm đầy những sự nhạy cảm có phần nguy hiểm như thế, tác giả Nguyễn Trần Bạt có khi phải vòng vo Tam Quốc, có khi vừa viết vừa run nên có chỗ phải thỏa hiệp, cải lương, lại có khi mập mờ đa ngữ nghĩa nên còn một số vấn đề chưa rốt ráo, hoặc chưa chính xác, chưa được khoa học cho lắm, cần phải thảo luận lại. Trước hết, đó là vấn đề TỰ DO.

Vấn đề này Nguyễn Trần Bạt nhắc đến trong hầu hết các tác phẩm lý luận của mình. Trong bài này ( chia làm hai kỳ), chúng tôi chỉ xin bàn với ông Nguyễn Trần Bạt về khái niệm Tự do, về các vấn đề liên quan đến tự do trong xã hội Việt Nam hôm nay nơi cuốn sách “ Nguyễn Trần Bạt – Cải cách và sự phát triển” ( NXB Hội Nhà Văn 6-2011), và cuốn “ Nguyễn Trần Bạt – cội nguồn cảm hứng” ( NXB Hội nhà văn 6-2011)

Trong cuốn “ Cội nguồn cảm hứng”, ở trang 118, Nguyễn Trần Bạt viết : “Con người không được nhân danh bất kỳ điều gì để chuyển toàn quyền tự do cá nhân của mình, vì chuyển nhượng toàn bộ các quyền tự do cá nhân chính là nô lệ. Trong xã hội hiện đại, có một số dân tộc nhượng bán toàn bộ quyền tự do cá nhân cho Chúa, đó chính là nô lệ tinh thần”…

Ở mệnh đề này, Nguyễn Trần Bạt dựa vào quan điểm khá sai lầm của Marx : “ Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” để lập luận, để nô lệ hóa những người có niềm tin tôn giáo vào Chúa. Hóa ra, những người tin Chúa không bao giờ có tự do sao ? Đây là vấn đề lớn trong khái niệm TỰ DO nên chúng tôi thấy cần bàn rốt ráo với ông Nguyễn Trần Bạt.

Cần phải nhớ rằng, Chúa Jesus vừa là nhân vật huyền thoại vừa là nhân vật lịch sử có thật. Ngài đến thế giới để giải phóng con người, mang tự do đến cho người bị áp bức, cụ thể là để giải phóng nô lệ trong một đế quốc La Mã chiếm hữu nô lệ. Đạo của Người thuở ban đầu hầu như đa phần dân nô lệ đi theo.

Đây là lời Chúa Giêsu rao giảng sự thật và tự do : “Nếu Người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do”(Ga 8, 36)

Thánh Phaolô nói về yếu tính tự do của Đức Giêsu: “Tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người.” (1Cor 9, 19).

Còn có thể trích ra trong Kinh Thánh rất nhiều cân bàn về tự do :

“Anh em đã được kêu gọi để hưởng tự do, vậy chớ dùng tự do mà làm tôi xác thịt, nhưng hãy lấy lòng yêu mến mà phục vụ nhau.”(Ga 5, 13)

“Anh em hãy nói năng và hành động như những người sẽ bị xét xử theo luật tự do.” (Gc 2, 12).

“Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do.” (2Cor, 3, 17).

Khái niệm tự do, vấn đề tự do, mối quan hệ tự do giữa cá nhân và xã hội đã được các nhà khai sáng Pháp và Âu Mỹ thế kỷ Ánh sáng ( thế kỷ 18) đặt ra rối ráo nhất, căn bản nhất bằng những khế ước xã hội quy định quyền tự do là quyền thiêng liêng nhất của con người. Trừ nhà triết học vĩ đại Voltaire bỏ Chúa, còn tất cả các nhà khai sáng dưới đây dù chống giáo hội nhưng họ vẫn là những người tìm thấy tự do trong Chúa : George Berkeley, Thomas Paine, Jean-Jacques Rousseau, David Hume, Montesquieu, Volff, Immanuel Kant, Benjamin Franklin, Denis Diderot, D’Alembert, Adam Smith, Thomas Jefferson ( người viết “bản tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ)…

Vậy theo ông Nguyễn Trần Bạt, chẳng lẽ các nhà khai sáng ra các giá trị tự do đích thực trên đều là bọn nô lệ tinh thần vì họ đã “nhượng bán quyền tự do cá nhân cho Chúa” ư ?

Trong bản “tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ” năm 1776 và bản “tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền” 1789 của Cách mạng Pháp, là hai bản tuyên ngôn đặt vấn đề căn bản của con người là tự do đều tuyên xưng Chúa ( Tạo hóa, Đấng tối cao) chẳng lẽ lại là những văn bản của người nô lệ “ bán nhượng quyền tự do cá nhân cho Chúa” theo quan niệm khá sai lầm của Nguyễn Trần Bạt trên hay sao ? :

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.( trích bản tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ 1776)

“Và như thế, Quốc Hội công nhận và tuyên bố, trong sự hiện diện và dưới sự che chở của Đấng Tối Cao, những quyền sau đây của con người và của công dân:

Các điều khoản

1. Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Sự phân biệt xã hội chỉ được phép thành lập trên cơ sở nó đem lại lợi ích chung cho cả cộng đồng.”(trích tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền cách mạng Pháp 1789)…

Ngày nay, các vị nguyên thủ quốc gia Âu Mỹ ( kể cả Nga) khi nhậm chức đều để tay lên cuốn Kinh Thánh thề trung thành với Chúa và hiến pháp tự do dân chủ của mỗi nước.

Nguyễn Trần Bạt tự mâu thuẫn với mệnh đề trang 118 của ông, rằng người tin Chúa hiến trọn tâm hồn và thể xác cho Ngài không có tự do, chỉ là những nô lệ tinh thần; trang 123, ông viết ngược lại rằng người tin Chúa, biết đối thoại với Chúa ( thần thánh) cũng là người tự do : “Bất kể sự thỏa thuận nào cũng thể hiện quyền tự do của con người. Khi con người đối thoại với nhau, với nhà cầm quyền, thậm chí với thần thánh chính là lúc con người thể hiện tự do của mình”…

Với những nước văn minh theo chế độ đa nguyên tự do dân chủ, tôn giáo là vấn đề tâm linh thiêng liêng nhất của con người. Với họ, tôn giáo và tự do không hề đối lập; ngược lại từ trong khái niệm thần học Thượng Đế, tự do đã được khai mở và phát huy những giá trị đẹp nhất nơi con người.

Những triết gia tiền Ki-tô giáo thời cổ Hi Lạp đã coi tự do tinh thần giúp con người đạt tới cõi thần linh. Platon và Aristote cho rằng :“Đời sống cao nhất của con người là suy tưởng vì ở đó con người được sống cuộc đời thần thánh, nơi đó tự do và nhận thức hợp thành một …đời sống tự do thực sự của con người đã tạo nên hình ảnh của trí năng cũng như tư duy về cái tốt lành”

Immanuel Kant, một tín đồ sòng đạo từng coi Thượng Đế chính là cái tuyệt đối của triết học, là khởi nguồn tư duy tự do đầy mặc khải, cũng xác định: “Một con người sinh hoạt theo lý trí sẽ nhất thiết sống tự do, không còn bị chi phối bởi cảm giác và nhục dục”

Thánh Saint Augustine , nhà triết học, thần học Kinh viện lớn nhất từng nói rằng: “Ý chí Thượng đế là căn bản tự do”

Hegel, người mang cái tuyệt đối Thượng Đế từ trời cao xuống trần gian đã nói về tự do như chìa khóa mở vào cái tất yếu, cái mà hình như chỉ có Chúa mới nhìn ra được, rằng : “Tự do là cái tất yếu được nhận thức”, rằng : “Bản tính của tinh thần là tự do”.Khái niệm tinh thần Hegel dùng ở đây chính là tinh thần Thiên Chúa giáo vậy…

( Còn tiếp)

Sài Gòn ngày 21-9-2012
Trần Mạnh Hảo
Tác giả gửi cho NTT blog


Trần Mạnh Hảo
Đăng bởi: Nguyễn Tường Thụy 2012 | 23/09/2012

Trong phần “Khế ước xã hội”, trang 110, 111 cuốn “Nguyễn Trần Bạt- Cội nguồn cảm hứng”,tác giả viết : “Một người sinh ra trên hoang đảo, anh ta sẽ không có nhu cầu nhận thức về tự do, mặc dù anh ta đang có tự do. Như thế, vấn đề trước tiên cần bàn bao giờ cũng là tự do trong mối tương quan giữa người dân và nhà nước, và tự do giữa con người với nhau trong xã hội”

Trong định đề trên, ông Bạt sao đã vội cấp cho “một con người sinh ra trên hoang đảo” chứng chỉ TỰ DO khí sớm? TỰ DO bao giờ cũng cần đi kèm những điều kiện của nó. Một con người bị tách ra khỏi xã hội loài người, con người đó làm sao có tự do? Anh ta (chị ta) sống một mình trên hoang đảo, dĩ nhiên không được hưởng sự giáo dục tối thiểu. Một người dốt liệu có tự do không? Không phải cứ sống hoang dã như loài thú thì có tự do.

Vả, ông Bạt đưa con người vào hoàn cảnh phi xã hội, phi nhận thức, phi lịch sử như trên rồi ban cho nó món tự do của loài huơu nai mà được ư? Trong hành trình của con người hoang dã này, sao nó chỉ được xét trong mối quan hệ với xã hội và con người mà thiếu vắng một MỐI QUAN HỆ GỐC là mối quan hệ với TỰ NHIÊN…

Tách con người ra khỏi tự nhiên mà chiêm ngưỡng xem nó có tự do hay không là quan điểm rất duy tâm về con người. Ở chỗ này, ông Bạt đã tiếp thu cái sai lầm to lớn của Marx, khi định nghĩa về con người như sau: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Marx sai là đã tách con người ra khỏi thế giới tự nhiên. Cần phải sửa câu định nghĩa về con người của Marx như sau mới chính xác: “CON NGƯỜI LÀ TỔNG HÒA CÁC MỐI QUAN HỆ TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI”

Trước khi Marx ra đời trên dưới hai trăm năm, một nhà bác học người Anh theo phái tự nhiên là John Locke đã khẳng định con người có ba quyền lớn nhất mà Chúa Trời ban cho như Ngài đã ban cho muông thú : QUYỀN ĐƯỢC SỐNG, QUYỀN TỰ DO VÀ QUYỀN SỞ HỮU. Sau này triết gia người Mỹ Jefferson đã dựa vào thuyết này của John Locke mà viết ra bản “tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ” bất hủ. Tách rời tự nhiên ra khỏi con người, nên Marx đã rất hồ đồ cho rằng: mọi tội lỗi, mọi sự thống khổ của con người đều do quyền tư hữu, sở hữu mà ra. Chao ôi, khi quyết liệt xóa tư hữu, xóa sở hữu, Marx đã hạ bệ con người xuống dưới cả loài kiến; vì con kiến cũng biết tư hữu, sở hữu cái tổ của chúng, sở hữu miếng ăn của chúng và sở hữu cái râu của chúng…

Cho nên, trong các nước cộng sản sau Marx, người ta đề ra một khẩu hiệu rất ngông cuồng là cần phải chống lại thiên nhiên, là vì vậy…

Con người đi tìm tự do cho mình thông qua thiên nhiên, thông qua xã hội và thông qua mối quan hệ đồng loại. Không có thiên nhiên tham dự vào hành trình tìm kiếm cuộc sống và tự do, con người sẽ không bao giờ có tự do.
Nguyễn Trần Bạt đã rất đúng và rất dũng cảm khi viết : “Qua những nghiên cứu về thực trạng thế giới thứ ba (Việt Nam nằm trong số này – chú của TMH), tôi nhận ra rằng, phần rộng lớn của thế giới lạc hậu nhất là về chính trị và biểu hiện quan trọng nhất của sự lạc hậu ấy là nhân dân ở đó không có tự do” (trang 12, cuốn: “Nguyễn Trần Bạt: Cải cách và sự phát triển – NXB Hội nhà văn 6-2011)

Khẳng định người dân Việt Nam hôm nay sống trong chế độ cộng sản “lạc hậu nhất về chính trị” hoàn toàn không có tự do là một thách thức lớn của Nguyễn Trần Bạt với nhà đương cục độc tài.

Ngay sau những dòng đáng nể trên, ông Bạt khí chủ quan khi đưa ra một hằng đẳng thức có vẻ thiếu sự kiểm soát của khoa học: “Những nghiên cứu của tôi đã đi đến một kết luận có tính nguyên lý về lý luận, đó là KHÔNG THỂ CÓ SỰ PHÁT TRIỂN NÀO ĐI TRƯỚC TỰ DO…” (sách vừa dẫn trang 12)

Khái niệm TỰ DO không chấp nhận cái ác và cái cực đoan. Chỉ xét trong hoàn cảnh Việt Nam từ năm 1986, năm nhà cầm quyền Việt Nam bỏ chủ nghĩa cộng sản để xây dựng nền kinh tế tư bản, mặc dù chưa có tự do; rõ ràng xã hội đã có sự phát triển hơn trước, cứu dân Việt Nam thoát khỏi cuộc chết đói vĩ đại có tên là chủ nghĩa xã hội. Nên nhớ học thuyết Marx căn bản là học thuyết về kinh tế.( CỘNG mọi tài SẢN của dân vào tay đảng cộng sản). Bỏ kinh tế độc quyền bị kế hoạch hóa để làm kinh tế tư bản: đa nguyên kinh tế, đảng cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn phủ nhận học thuyết Marx. Chính họ là những kẻ CHỐNG ĐẢNG NHẤT chứ không phải là những nhà dân chủ đối lập bị họ gán cho tội chống đảng rồi bắt giam cầm trong nhà tù như Điếu Cày, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Anh Ba Sài Gòn Phan Thanh Hải sẽ ra tòa ngày 24/9/2012.

Nhà Đường Trung Hoa có nền kinh tế và văn hóa phát triển hơn châu Âu đang chìm đắm trong bóng đen trung cổ, mặc dù các vua nhà Đường chưa hề biết khái niệm tự do. Chính Tôn Trung Sơn từng khẳng định : người Trung Hoa suốt 5000 năm lịch sử không bao giờ có tự do, cũng không hề nhận thức về tự do .

Ngay thế giới Ả Rập thời đó cũng phát triển hơn châu Âu mặc dù họ chưa có tự do. Trung Quốc ngày nay là một đất nước KHÔNG CÓ TỰ DO nhưng là một ĐẤT NƯỚC PHÁT TRIỂN vào loại hàng đầu thế giới về kinh tế. Do đó kết luận : KHÔNG CÓ SỰ PHÁT TRIỂN NÀO ĐI TRƯỚC TỰ DO của Nguyễn Trần Bạt là không đúng.

Nguyễn Trần Bạt đã rất đúng khi khẳng định chỉ có nền chính trị đa nguyên (đa đảng) mới là nền chính trị tự do: “Một thể chế chính trị hợp lý là một thể chế có khả năng được điều hành bởi những đảng chính trị khác nhau. Đó là CHÍNH TRỊ TỰ DO”(Cải cách và phát triển, trang 92, sách vừa dẫn)

Nhưng sau đó chỉ 4 trang, ông Bạt đã tự mâu thuẫn, nói ngược lại ý mình như sau: “Tự do về chính trị là giải phóng con người ra khỏi chính trị chứ KHÔNG CÓ NỀN CHÍNH TRỊ TỰ DO” (sách đã dẫn, trang 96).
Một nền chính trị đa đảng do dân bầu nên người cầm quyền là một nền chính trị vương đạo, một nền chính trị tư do. Ngược lại một nền chính trị độc tài, độc đảng là một nền chính trị bá đạo, nền chính tri không tự do, thiếu vắng nhân quyền.

Rõ ràng ông Bạt còn tỏ ra lúng túng và bất cập về quan niệm giữa tự do và chính trị.

Phủ nhận vai trò thiết yếu của các cuộc cách mạng trong vấn đề tạo dựng tự do, Nguyễn Trần Bạt viết : “Tôi cho rằng, mọi cuộc cách mạng đều không đem lại tự do, các cuộc chỉnh lý sau cách mạng đem lại tự do chứ không phải cách mạng. Mọi người tưởng rằng cách mạng Pháp mang lại tự do, nhưng trên thực tế đã tạo ra Napoleon…”(Cải cách và sự phát triển –NXB Hội nhà văn 6-2011, trang 93).

Nguyễn Trần Bạt viết như thế là hoàn toàn sai. Chính cuộc Cách mạng Pháp 1789 đã tạo ra khẩu hiệu tuyệt vời: TỰ DO-BÌNH ĐẲNG- BÁC ÁI. Đây chính là cuộc CÁCH MẠNG CỦA TỰ DO. Naponeon chính là sản phẩm tự do của cách mạng Pháp. Chính nhờ thiên tài quân sự vô song của Naponeon mà thành quả tự do của cách mạng Pháp không bị liên minh quân sự hùng mạnh của các vua Châu Âu bóp chết. Sau khi chiếm gần trọn châu Âu, Napoleon đã gieo hạt giống tự do dân chủ lên toàn châu lục này. Bộ luật DÂN SỰ của Napoleon rất tiến bộ, khẳng định quyền tự do, quyền sống, quyền tư hữu của công dân, giải thoát người nông dân châu Âu thoát khỏi vòng nô lệ của các lãnh chúa là bô luật vĩ đại, là bước tiến lớn của lịch sử nhân loại. Sau hai trăm năm từ khi bộ LUẬT DÂN SỰ của Naponeon ra đời, luật pháp, hiến pháp của các quốc gia Âu Mỹ hầu như vẫn còn giữ lại tinh thần giải phóng, tinh thần tự do của Naponeon. Lấy việc xưng Hoàng Đế của Napoleon để phủ nhận vai trò tiên phong của ông giữ gìn và phát huy tinh thần tự do của cách mạng Pháp, Nguyễn Trần Bạt hầu như chưa nghiên cứu kỹ lịch sử thế giới.
Nếu không có Naponeon, thế giới ngày nay chưa thể đạt được sự toàn thắng của Tự do; trừ năm nước cộng sản: Trung – Việt – Triều – Cu – Lào vẫn còn giữ chế độ độc tài, một chế độ mà Cách mạng Pháp và Naponeon đã xóa sổ từ hơn hai trăm năm trước.

Còn có thể kể thêm hai cuộc cách mạng khác đã tạo tự do cho nhân dân, là Cách Mạng Tân Hợi 1911 do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, lật đổ nhà Thanh, mang lại nền cộng hòa cho dân tộc Trung Hoa, và cách mạng bất bạo động của Mahatma Gandhi giành độc lập cho Ấn Độ năm 1947.

Cần phải trích thêm một đoạn văn khác của Nguyễn Trần Bạt, để thấy sự ngộ nhận của ông về chuyện các cuộc cách mạng không mang lại tự do là một lô cốt ông không thể vượt qua để đi tới khái niệm tự do: “Không có hòa bình thì con người chạy trốn để tìm cách tồn tại. Tồn tại là mục tiêu của những hoạt động phi hòa bình (tức chiến tranh)…Chính vì thế, tự do hoàn toàn không phải là sản phẩm của các cuộc cách mạng…Các nhà cách mạng tạo ra một trạng thái bịa đặt, một trạng thái được gọi là tự do sau khi ra khỏi tù…”(Sách đã dẫn, trang 93,94,95)
Những nhận xét của ông Bạt trên đều không đúng. Chính Naponeon đã dùng đại bác để rao giảng tự do, dùng chiến tranh để tạo dựng tự do trên phần lớn các lãnh thổ châu Âu phong kiến.

Nhận thức về tự do của ông Bạt quả là ấu trĩ khi ông viết: “Tự do không phải là giải phóng nô lệ vì giải phóng nô lệ là giải phóng con người ra khỏi trạng thái bị giam hãm chứ không đem lại tự do thực sự cho con người”(sách đã dẫn gtrang 94).

Viết như thế này, Nguyễn Trần Bạt đã vô tình xúc phạm người anh hùng giải phóng nô lệ Abraham Lincoln?
Chúng ta còn có thể tìm thấy khá nhiều sự bất cập, thiếu vắng tinh thần khoa học trong sách của ông Nguyễn Trần Bạt, không chỉ sai về quan niệm tự do, mà còn sai nhiều nơi rải rác như khi ông bàn về dân chủ, về kinh tế, văn hóa hay toàn cầu hóa…Hẹn bạn đọc trong một dịp khác chăng ?

Khi chúng tôi đang ngồi viết bài báo này thì nhận được điện thoại của nhà báo, nhà thơ Lê Phú Khải gọi lên từ Cần Thơ: “ Này, Trần Mạnh Hảo đừng để mất uy tín khi viết bài khen ngợi sách của ông Nguyễn Trần Bạt nhá. Ông ta đã phản bội các cuốn sách của mình rồi. Vừa qua, ông Bạt trong một bài trả lời phỏng vấn ca ngợi nhà nước cộng sản Việt Nam là không phải toàn trị, không phải độc tài, nghĩa là ngầm khen nhà nước độc đảng này dân chủ. Ông Bạt còn dám lăng nhục những người dân biểu tình đòi lại đất bị chính quyền ăn cướp là bọn người ăn vạ chính phủ. Ông Bạt còn nói nghiên cứu xã hội thì phải đứng trên lập trường của nhà cầm quyền …Nghĩa là ông Bạt đã lừa chúng ta bằng các cuốn sách dân chủ dỏm, tự do lừa. Thực ra ông Bạt là con bài của nhà nước đã bị lật mặt … Anh Hảo cho tôi ( LPK) nhắn với Nguyễn Trần Bạt rằng: ông ta là một ngụy trí thức, là một người bỉ ổi … Anh Hảo hãy vào mạng xem bài của Phạm Hồng Sơn viết về Nguyễn Trần Bạt…”

Tôi hơi bị choáng váng bởi hai cú điện thoại của nhà báo Lê Phú Khải nói về ông Nguyễn Trần Bạt. Tôi đã vào mạng đọc bài của anh Phạm Hồng Sơn, và phần nào thông cảm với sự nổi giận của anh Lê Phú Khải. Chỉ xin trích những lời ông Nguyễn Trần Bạt trả lời phỏng vấn để bạn đọc phán xét, trích từ bài báo :“Hơn hai sai lầm nguy hiểm của ông Nguyễn Trần Bạt” của Phạm Hồng Sơn Tháng 9 4, 2012 in trên © 2012 pro&contra.

Chúng tôi chỉ xin trích những lời phát biểu của ông Nguyễn Trần Bạt, ngược hoàn toàn với tinh thần khai phóng, chan chứa nỗi niềm tự do dân chủ của ông từng thể hiện trong các cuốn sách của ông, như sau :

Ông Nguyễn Trần Bạt trả lời phỏng vấn Trung tâm dữ liệu các tổ chức phi chính phủ.”[i]

Ông Nguyễn Trần Bạt phát biểu: “Và đến bây giờ, tôi kết luận là: không có bất kỳ nguy cơ nào về mặt chính trị cho các nhà cầm quyền, cho Đảng Cộng sản Việt Nam và cho chính phủ Việt Nam khi chúng ta có một xã hội dân sự lành mạnh. Ngược lại, nó gỡ cho họ những gánh nặng khủng khiếp trong việc bành trướng cơ cấu nhà nước để tổ chức quản lý xã hội, cái mà nhiều người không thiện chí gọi là toàn trị. Tôi cho khái niệm toàn trị là một khái niệm thuần tuý lý thuyết. Xã hội chúng ta thực ra cũng không toàn trị. Các nhà lãnh đạo của chúng ta không có ai toàn trị.

Khi bàn đến vấn đề nhân quyền (quyền con người) ông Nguyễn Trần Bạt có đưa ra hai nhận định:

Nhận định (1): “Người ta tưởng rằng nhân quyền gắn liền với sự đòi đất, kêu oan, biểu tình, nhưng tôi không nghĩ như vậy. Con người sở dĩ ăn vạ chính phủ là vì họ không có năng lực.

Nhận định (2):Tôi đã có một kết luận rằng nhân quyền không còn là quyền chính trị, nhân quyền là quyền phát triển và chống lại rủi ro của cuộc sống.

Về chỗ đứng của nghiên cứu khoa học

Nguyễn Trần Bạt phát biểu: “Nghiên cứu xã hội học tức là anh phải đặt mình vào địa vị của nhà cầm quyền, bởi vì bao giờ những nghiên cứu xã hội cũng phải bắt đầu từ lực lượng xã hội mạnh nhất, mà lực lượng xã hội mạnh nhất chính là các đảng chính trị cầm quyền. Vì nếu không xuất phát từ quyền lợi của các đảng chính trị cầm quyền thì các khái niệm tử tế không hình thành được. Cho nên phải đặt mình vào địa vị của họ để nghiên cứu cái mà mình muốn có hại gì cho họ không?

Ông Nguyễn Trần Bạt ơi, sao lại quay ngoắt 180 độ như thế này? Ông vừa mới phê phán đảng cộng sản Việt Nam là độc tài, là phi dân chủ, là tước đoạt tự do của nhân dân Việt Nam, sao giờ ông lại đổi giọng nịnh đảng thế, lại chửi dân oan, lại công khai nói ông đứng hẳn về phía chính quyền để nghiên cứu xã hội. Ông đã làm tổn thương đến tình cảm của tôi dành cho ông trong hai bài viết về những cuốn sách rất đáng đọc của ông.

Xin ông thương lấy những cuốn sách rất được của mình mà đừng phản bội nó, hơn nữa lại đang tâm phản bội độc giả từng đánh giá cao ông, ít ra là trong thái độ dũng cảm dám đương đầu với cường quyền.,.

Sài Gòn ngày 23-9-2012
Trần Mạnh Hảo
Tác giả gửi cho NTT blog





No comments:

Post a Comment

View My Stats