Trần Mạnh Hảo
Ông Philipp Rösler Bộ trưởng bộ kinh tế Cộng hòa Liên
bang Đức, kiêm Phó Thủ tướng Đức, trong buổi gặp gỡ sinh viên Đại học Kinh tế
Quốc dân Hà Nội ngày 19-9-2012, đã nhấn mạnh vấn đề then chốt của nền kinh tế
Việt Nam nằm trong hai tiếng TỰ DO : “không có tự do thì làm sao người ta
có thể suy nghĩ, quyết định và hành động một cách tự chủ đầy trách nhiệm được“.
Ông Rosler nhấn mạnh : “ Việt Nam cần phải để nhân dân có quyền tự do dân chủ
thì mới phát triển được nền kinh tế”. Trích bài :”Bộ
trưởng Rösler tại đại học Hà Nội: “Việt Nam cần nhiều cải cách dân chủ”
Xem ra, lúc này, TỰ DO thiết yếu với con người Việt Nam,
dân tộc Việt Nam như dưỡng khí. Không có tự do, dân tộc ta, đất nước ta hầu như
không có gì cả. Ông Hồ Chí Minh cũng có lúc phải thốt ra : “ Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”, “ Có độc lập mà không có tự do hạnh phúc, coi như không có
gì cả”…
Trong lúc quyền tự do của người dân Việt Nam đang bị nhà
nước hạn chế : hiếp pháp cho tự do báo chí nhưng dân không được ra báo tư; hiến
pháp cho biểu tình nhưng nếu người dân ( ông chủ) biểu tình yêu nước sẽ bị công
an nhà nước ( nô bộc) đàn áp bắt bỏ tù; hiến pháp cho tự do lập hội nhưng anh
Điếu Cày vừa lập câu lạc bộ báo chí tự do mới có ba thành viên ( Điếu
Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Anh Ba Sài Gòn Phan Thanh Hải) cả ba người
liền bị bắt giam lâu ngày, sẽ ra tòa ngày 24-9-2012 sắp tới); hiếp pháp cho tự
do tôn giáo nhưng một số nhà sư, một số cha cố, mục sư, thầy chùa của đạo Công
giáo, Tin lành, Phật giáo, Cao đài, Hòa hảo và giáo dân vẫn bị đàn áp bắt bớ;
hiếp pháp cho dân được tự do cư trú nhưng chính sách hộ khẩu lại ngăn cấm…thì
việc nhà nghiên cứu Nguyễn Trần Bạt viết nhiều bài bàn về vấn đề TỰ DO thật đáng
quý biết bao.
Ông Nguyễn Trần Bạt, trong thời gian vừa qua, nổi lên như
một hiện tượng hiếm có trong các vấn đề lý luận từ văn hóa đến chính trị, từ
triết học đến kinh tế…như một nhà nghiên cứu lý luận nổi bật nhất của Việt Nam
hôm nay, với gần chục tập sách dày cộm được nhà nước cho phép xuất bản công
khai. Chỉ đọc qua một số mệnh đề rút gọn được ông Nguyễn Trần Bạt in trên mép
gấp bìa bốn các cuốn sách của mình, cũng thấy ông dám dũng cảm thách thức nhà
đương cục cộng sản Việt Nam, đặng công phá những lô cốt tuyên giáo đầy rào gai,
đầy gươm giáo búa liềm kinh khiếp, cũng đủ thấy bản lĩnh của ông ghê gớm nhường
nào; và cũng thấy nhà cầm quyền đã nhân nhượng khá nhiều để cho sách ông được
in và phát hành công khai trên danh nghĩa lề phải…
Khi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vốn coi trí thức là
cục phân ( Mao Trạch Đông nhắc lại lời Lenin trong thư gửi Goocki), cấm đối
lập, tức cấm các ý trái chiều, trái với ý nhà nước, nhất là cấm đối lập chính
trị ( mà đối lập là linh hồn biện chứng pháp Marxism), Nguyễn Trần Bạt dám
thách thức chính quyền để đưa ra định nghĩa về trí thức như sau : “Tiêu
chuẩn thứ nhất là trí thức phải cầm quyền về mặt lẽ phải, thứ hai là trí thức
phải luôn luôn đối lập với nhà cầm quyền, đối lập với quá khứ, đối lập với nhau
và đối lập với các yếu tố bên ngoài” ( mép gấp bìa bốn cuốn : “ Nguyễn
Trần Bạt – Đối thoại với tương lai- tập 2-NXB Hội nhà văn 3-2011)
Khi nhà cầm quyền coi chính trị là thống soái, Nguyễn
Trần Bạt vạch ra nền giáo dục Việt Nam sa đọa là vì nó bị chính trị hóa, như
sau : “Cải cách giáo dục về bản chất là phi chính trị hóa giáo dục, trả
lại cho học đường tất cả những sự yên tĩnh của nó” ( sách đã dẫn)
Trên mép gấp bìa bốn cuốn “Cải cách và sự phát triển” (
NXB Hội Nhà Văn 6-2011), Nguyễn Trần Bạt vạch ra một mệnh đề sống còn của đảng
cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam là khi nền chính trị tuyệt đối nằm trong
tay một đảng cầm quyền thì nhân dân thực chất không có một chút quyền lực nào :
“ Nếu xã hội tiếp tục là sở hữu của các tập đoàn chính trị, thậm chí
người ta xây dựng các pháp chế để hợp pháp hóa vai trò làm chủ xã hội về mặt
chính trị của các tập đoàn chính trị thì tức là không có nhân dân trong đó, tức
là không có dân chủ”…
Chúng ta có thể tìm thấy trong ngót chục cuốn sách của
Nguyễn Trần Bạt những mệnh đề chính trị xã hội ngược với các giáo điều cộng sản
đang tồn tại trên mặt lý thuyết ở nước ta hôm nay. Có thể nói, lần đầu tiên, ở
Việt Nam sau năm 1975 đến nay, có một tác giả viết sách thực thi vai trò trí
thức phản biện xã hội, dám đụng đến các vấn đề cốt lõi của chế độ độc đảng, độc
quyền, lại hi hữu được nhà cầm quyền cho xuất bản rộng rãi- đó là tác giả
Nguyễn Trần Bạt. Ông là người học được tinh thần đối lập của Marx để viết ra
nhiều cuốn sách như một nhà nghiên cứu, một lý luận gia đối lập, nơi chính quyền
tuyệt đối cấm đối lập. Đó chính là thành công lớn của Nguyễn Trần Bạt. Ông đã,
đang và sẽ được lịch sử vinh danh vì dám dũng cảm nói lên tiếng nói chân thực
của người trí thức trước các vấn đề chưa có lối thoát của xã hội, góp phần khai
mở dân trí. Chúng tôi đánh giá rất cao công trạng này của ông.
Tất nhiên, trong quá trình viết ra những cuốn sách dày
cộm đầy những sự nhạy cảm có phần nguy hiểm như thế, tác giả Nguyễn Trần Bạt có
khi phải vòng vo Tam Quốc, có khi vừa viết vừa run nên có chỗ phải thỏa hiệp,
cải lương, lại có khi mập mờ đa ngữ nghĩa nên còn một số vấn đề chưa rốt ráo,
hoặc chưa chính xác, chưa được khoa học cho lắm, cần phải thảo luận lại. Trước
hết, đó là vấn đề TỰ DO.
Vấn đề này Nguyễn Trần Bạt nhắc đến trong hầu hết các tác
phẩm lý luận của mình. Trong bài này ( chia làm hai kỳ), chúng tôi chỉ xin bàn
với ông Nguyễn Trần Bạt về khái niệm Tự do, về các vấn đề liên quan đến tự do
trong xã hội Việt Nam hôm nay nơi cuốn sách “ Nguyễn Trần Bạt – Cải cách và sự
phát triển” ( NXB Hội Nhà Văn 6-2011), và cuốn “ Nguyễn Trần Bạt – cội nguồn
cảm hứng” ( NXB Hội nhà văn 6-2011)
Trong cuốn “ Cội nguồn cảm hứng”, ở trang 118, Nguyễn
Trần Bạt viết : “Con người không được nhân danh bất kỳ điều gì để chuyển
toàn quyền tự do cá nhân của mình, vì chuyển nhượng toàn bộ các quyền tự do cá
nhân chính là nô lệ. Trong xã hội hiện đại, có một số dân tộc nhượng bán toàn
bộ quyền tự do cá nhân cho Chúa, đó chính là nô lệ tinh thần”…
Ở mệnh đề này, Nguyễn Trần Bạt dựa vào quan điểm khá sai
lầm của Marx : “ Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” để lập luận, để
nô lệ hóa những người có niềm tin tôn giáo vào Chúa. Hóa ra, những người tin
Chúa không bao giờ có tự do sao ? Đây là vấn đề lớn trong khái niệm TỰ DO nên
chúng tôi thấy cần bàn rốt ráo với ông Nguyễn Trần Bạt.
Cần phải nhớ rằng, Chúa Jesus vừa là nhân vật huyền thoại
vừa là nhân vật lịch sử có thật. Ngài đến thế giới để giải phóng con người,
mang tự do đến cho người bị áp bức, cụ thể là để giải phóng nô lệ trong một đế
quốc La Mã chiếm hữu nô lệ. Đạo của Người thuở ban đầu hầu như đa phần dân nô
lệ đi theo.
Đây là lời Chúa Giêsu rao giảng sự thật và tự do : “Nếu
Người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do”(Ga
8, 36)
Thánh Phaolô nói về yếu tính tự do của Đức Giêsu: “Tôi
là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi
người, hầu chinh phục thêm được nhiều người.” (1Cor 9, 19).
Còn có thể trích ra trong Kinh Thánh rất nhiều cân bàn về
tự do :
“Anh em đã được kêu gọi để hưởng tự do, vậy chớ dùng tự
do mà làm tôi xác thịt, nhưng hãy lấy lòng yêu mến mà phục vụ nhau.”(Ga 5, 13)
“Anh em hãy nói năng và hành động như những người sẽ bị
xét xử theo luật tự do.” (Gc 2, 12).
“Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở
đó có tự do.” (2Cor, 3, 17).
Khái niệm tự do, vấn đề tự do, mối quan hệ tự do giữa cá
nhân và xã hội đã được các nhà khai sáng Pháp và Âu Mỹ thế kỷ Ánh sáng ( thế kỷ
18) đặt ra rối ráo nhất, căn bản nhất bằng những khế ước xã hội quy định quyền
tự do là quyền thiêng liêng nhất của con người. Trừ nhà triết học vĩ đại
Voltaire bỏ Chúa, còn tất cả các nhà khai sáng dưới đây dù chống giáo hội nhưng
họ vẫn là những người tìm thấy tự do trong Chúa : George Berkeley, Thomas
Paine, Jean-Jacques Rousseau, David Hume, Montesquieu, Volff, Immanuel Kant,
Benjamin Franklin, Denis Diderot, D’Alembert, Adam Smith, Thomas Jefferson (
người viết “bản tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ)…
Vậy theo ông Nguyễn Trần Bạt, chẳng lẽ các nhà khai sáng
ra các giá trị tự do đích thực trên đều là bọn nô lệ tinh thần vì họ đã “nhượng
bán quyền tự do cá nhân cho Chúa” ư ?
Trong bản “tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ” năm 1776 và bản
“tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền” 1789 của Cách mạng Pháp, là hai bản tuyên
ngôn đặt vấn đề căn bản của con người là tự do đều tuyên xưng Chúa ( Tạo hóa,
Đấng tối cao) chẳng lẽ lại là những văn bản của người nô lệ “ bán nhượng quyền
tự do cá nhân cho Chúa” theo quan niệm khá sai lầm của Nguyễn Trần Bạt trên hay
sao ? :
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo
hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy,
có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.( trích bản tuyên
ngôn độc lập Hoa Kỳ 1776)
“Và như thế, Quốc Hội công nhận và tuyên bố, trong sự hiện
diện và dưới sự che chở của Đấng Tối Cao, những quyền sau đây của con người
và của công dân:
Các điều khoản
1. Người ta sinh ra tự do
và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền
lợi. Sự phân biệt xã hội chỉ được phép thành lập trên cơ sở nó đem lại lợi ích
chung cho cả cộng đồng.”(trích tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền cách mạng
Pháp 1789)…
Ngày nay, các vị nguyên thủ quốc gia Âu Mỹ ( kể cả Nga)
khi nhậm chức đều để tay lên cuốn Kinh Thánh thề trung thành với Chúa và hiến
pháp tự do dân chủ của mỗi nước.
Nguyễn Trần Bạt tự mâu thuẫn với mệnh đề trang 118 của
ông, rằng người tin Chúa hiến trọn tâm hồn và thể xác cho Ngài không có tự do,
chỉ là những nô lệ tinh thần; trang 123, ông viết ngược lại rằng người tin Chúa,
biết đối thoại với Chúa ( thần thánh) cũng là người tự do : “Bất kể sự thỏa
thuận nào cũng thể hiện quyền tự do của con người. Khi con người đối thoại với
nhau, với nhà cầm quyền, thậm chí với thần thánh chính là lúc con người thể
hiện tự do của mình”…
Với những nước văn minh theo chế độ đa nguyên tự do dân
chủ, tôn giáo là vấn đề tâm linh thiêng liêng nhất của con người. Với họ, tôn
giáo và tự do không hề đối lập; ngược lại từ trong khái niệm thần học Thượng
Đế, tự do đã được khai mở và phát huy những giá trị đẹp nhất nơi con người.
Những triết gia tiền Ki-tô giáo thời cổ Hi Lạp đã coi tự
do tinh thần giúp con người đạt tới cõi thần linh. Platon và Aristote cho rằng
:“Đời sống cao nhất của con người là suy tưởng vì ở đó con người được sống
cuộc đời thần thánh, nơi đó tự do và nhận thức hợp thành một …đời sống tự do
thực sự của con người đã tạo nên hình ảnh của trí năng cũng như tư duy về cái
tốt lành”
Immanuel Kant, một tín đồ sòng đạo từng coi Thượng Đế
chính là cái tuyệt đối của triết học, là khởi nguồn tư duy tự do đầy mặc khải,
cũng xác định: “Một con người sinh hoạt theo lý trí sẽ nhất thiết sống tự do,
không còn bị chi phối bởi cảm giác và nhục dục”
Thánh Saint Augustine , nhà triết học, thần học Kinh viện
lớn nhất từng nói rằng: “Ý chí Thượng đế là căn bản tự do”
Hegel, người mang cái tuyệt đối Thượng Đế từ trời cao
xuống trần gian đã nói về tự do như chìa khóa mở vào cái tất yếu, cái mà hình
như chỉ có Chúa mới nhìn ra được, rằng : “Tự do là cái tất yếu được nhận
thức”, rằng : “Bản tính của tinh thần là tự do”.Khái niệm tinh thần
Hegel dùng ở đây chính là tinh thần Thiên Chúa giáo vậy…
( Còn tiếp)
Sài Gòn ngày 21-9-2012
Trần Mạnh Hảo
Tác giả gửi cho NTT blog
Trần Mạnh Hảo
Đăng bởi: Nguyễn Tường Thụy 2012 | 23/09/2012
Trong phần “Khế ước xã hội”, trang 110, 111 cuốn “Nguyễn
Trần Bạt- Cội nguồn cảm hứng”,tác giả viết : “Một người sinh ra trên hoang đảo,
anh ta sẽ không có nhu cầu nhận thức về tự do, mặc dù anh ta đang có tự do. Như
thế, vấn đề trước tiên cần bàn bao giờ cũng là tự do trong mối tương quan giữa
người dân và nhà nước, và tự do giữa con người với nhau trong xã hội”
Trong định đề trên, ông Bạt sao đã vội cấp cho “một con
người sinh ra trên hoang đảo” chứng chỉ TỰ DO khí sớm? TỰ DO bao giờ cũng cần
đi kèm những điều kiện của nó. Một con người bị tách ra khỏi xã hội loài người,
con người đó làm sao có tự do? Anh ta (chị ta) sống một mình trên hoang đảo, dĩ
nhiên không được hưởng sự giáo dục tối thiểu. Một người dốt liệu có tự do
không? Không phải cứ sống hoang dã như loài thú thì có tự do.
Vả, ông Bạt đưa con người vào hoàn cảnh phi xã hội, phi
nhận thức, phi lịch sử như trên rồi ban cho nó món tự do của loài huơu nai mà
được ư? Trong hành trình của con người hoang dã này, sao nó chỉ được xét trong
mối quan hệ với xã hội và con người mà thiếu vắng một MỐI QUAN HỆ GỐC là mối
quan hệ với TỰ NHIÊN…
Tách con người ra khỏi tự nhiên mà chiêm ngưỡng xem nó có
tự do hay không là quan điểm rất duy tâm về con người. Ở chỗ này, ông Bạt đã
tiếp thu cái sai lầm to lớn của Marx, khi định nghĩa về con người như sau: “Con
người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Marx sai là đã tách con người ra
khỏi thế giới tự nhiên. Cần phải sửa câu định nghĩa về con người của Marx như
sau mới chính xác: “CON NGƯỜI LÀ TỔNG HÒA CÁC MỐI QUAN HỆ TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI”
Trước khi Marx ra đời trên dưới hai trăm năm, một nhà bác
học người Anh theo phái tự nhiên là John Locke đã khẳng định con người có ba
quyền lớn nhất mà Chúa Trời ban cho như Ngài đã ban cho muông thú : QUYỀN ĐƯỢC
SỐNG, QUYỀN TỰ DO VÀ QUYỀN SỞ HỮU. Sau này triết gia người Mỹ Jefferson đã dựa
vào thuyết này của John Locke mà viết ra bản “tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ” bất
hủ. Tách rời tự nhiên ra khỏi con người, nên Marx đã rất hồ đồ cho rằng: mọi
tội lỗi, mọi sự thống khổ của con người đều do quyền tư hữu, sở hữu mà ra. Chao
ôi, khi quyết liệt xóa tư hữu, xóa sở hữu, Marx đã hạ bệ con người xuống dưới
cả loài kiến; vì con kiến cũng biết tư hữu, sở hữu cái tổ của chúng, sở hữu
miếng ăn của chúng và sở hữu cái râu của chúng…
Cho nên, trong các nước cộng sản sau Marx, người ta đề ra
một khẩu hiệu rất ngông cuồng là cần phải chống lại thiên nhiên, là vì vậy…
Con người đi tìm tự do cho mình thông qua thiên nhiên,
thông qua xã hội và thông qua mối quan hệ đồng loại. Không có thiên nhiên tham
dự vào hành trình tìm kiếm cuộc sống và tự do, con người sẽ không bao giờ có tự
do.
Nguyễn Trần Bạt đã rất đúng và rất dũng cảm khi viết :
“Qua những nghiên cứu về thực trạng thế giới thứ ba (Việt Nam nằm trong số này
– chú của TMH), tôi nhận ra rằng, phần rộng lớn của thế giới lạc hậu nhất là về
chính trị và biểu hiện quan trọng nhất của sự lạc hậu ấy là nhân dân ở đó không
có tự do” (trang 12, cuốn: “Nguyễn Trần Bạt: Cải cách và sự phát triển – NXB
Hội nhà văn 6-2011)
Khẳng định người dân Việt Nam hôm nay sống trong chế độ
cộng sản “lạc hậu nhất về chính trị” hoàn toàn không có tự do là một thách thức
lớn của Nguyễn Trần Bạt với nhà đương cục độc tài.
Ngay sau những dòng đáng nể trên, ông Bạt khí chủ quan
khi đưa ra một hằng đẳng thức có vẻ thiếu sự kiểm soát của khoa học: “Những nghiên
cứu của tôi đã đi đến một kết luận có tính nguyên lý về lý luận, đó là KHÔNG
THỂ CÓ SỰ PHÁT TRIỂN NÀO ĐI TRƯỚC TỰ DO…” (sách vừa dẫn trang 12)
Khái niệm TỰ DO không chấp nhận cái ác và cái cực đoan.
Chỉ xét trong hoàn cảnh Việt Nam từ năm 1986, năm nhà cầm quyền Việt Nam bỏ chủ
nghĩa cộng sản để xây dựng nền kinh tế tư bản, mặc dù chưa có tự do; rõ ràng xã
hội đã có sự phát triển hơn trước, cứu dân Việt Nam thoát khỏi cuộc chết đói vĩ
đại có tên là chủ nghĩa xã hội. Nên nhớ học thuyết Marx căn bản là học thuyết
về kinh tế.( CỘNG mọi tài SẢN của dân vào tay đảng cộng sản). Bỏ kinh tế độc
quyền bị kế hoạch hóa để làm kinh tế tư bản: đa nguyên kinh tế, đảng cộng sản
Việt Nam đã hoàn toàn phủ nhận học thuyết Marx. Chính họ là những kẻ CHỐNG ĐẢNG
NHẤT chứ không phải là những nhà dân chủ đối lập bị họ gán cho tội chống đảng
rồi bắt giam cầm trong nhà tù như Điếu Cày, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Anh
Ba Sài Gòn Phan Thanh Hải sẽ ra tòa ngày 24/9/2012.
Nhà Đường Trung Hoa có nền kinh tế và văn hóa phát triển
hơn châu Âu đang chìm đắm trong bóng đen trung cổ, mặc dù các vua nhà Đường
chưa hề biết khái niệm tự do. Chính Tôn Trung Sơn từng khẳng định : người Trung
Hoa suốt 5000 năm lịch sử không bao giờ có tự do, cũng không hề nhận thức về tự
do .
Ngay thế giới Ả Rập thời đó cũng phát triển hơn châu Âu
mặc dù họ chưa có tự do. Trung Quốc ngày nay là một đất nước KHÔNG CÓ TỰ DO
nhưng là một ĐẤT NƯỚC PHÁT TRIỂN vào loại hàng đầu thế giới về kinh tế. Do đó
kết luận : KHÔNG CÓ SỰ PHÁT TRIỂN NÀO ĐI TRƯỚC TỰ DO của Nguyễn Trần Bạt là
không đúng.
Nguyễn Trần Bạt đã rất đúng khi khẳng định chỉ có nền
chính trị đa nguyên (đa đảng) mới là nền chính trị tự do: “Một thể chế chính
trị hợp lý là một thể chế có khả năng được điều hành bởi những đảng chính trị
khác nhau. Đó là CHÍNH TRỊ TỰ DO”(Cải cách và phát triển, trang 92, sách vừa
dẫn)
Nhưng sau đó chỉ 4 trang, ông Bạt đã tự mâu thuẫn, nói
ngược lại ý mình như sau: “Tự do về chính trị là giải phóng con người ra khỏi
chính trị chứ KHÔNG CÓ NỀN CHÍNH TRỊ TỰ DO” (sách đã dẫn, trang 96).
Một nền chính trị đa đảng do dân bầu nên người cầm quyền
là một nền chính trị vương đạo, một nền chính trị tư do. Ngược lại một nền
chính trị độc tài, độc đảng là một nền chính trị bá đạo, nền chính tri không tự
do, thiếu vắng nhân quyền.
Rõ ràng ông Bạt còn tỏ ra lúng túng và bất cập về quan
niệm giữa tự do và chính trị.
Phủ nhận vai trò thiết yếu của các cuộc cách mạng trong
vấn đề tạo dựng tự do, Nguyễn Trần Bạt viết : “Tôi cho rằng, mọi cuộc cách mạng
đều không đem lại tự do, các cuộc chỉnh lý sau cách mạng đem lại tự do chứ
không phải cách mạng. Mọi người tưởng rằng cách mạng Pháp mang lại tự do, nhưng
trên thực tế đã tạo ra Napoleon…”(Cải cách và sự phát triển –NXB Hội nhà văn
6-2011, trang 93).
Nguyễn Trần Bạt viết như thế là hoàn toàn sai. Chính cuộc
Cách mạng Pháp 1789 đã tạo ra khẩu hiệu tuyệt vời: TỰ DO-BÌNH ĐẲNG- BÁC ÁI. Đây
chính là cuộc CÁCH MẠNG CỦA TỰ DO. Naponeon chính là sản phẩm tự do của cách
mạng Pháp. Chính nhờ thiên tài quân sự vô song của Naponeon mà thành quả tự do
của cách mạng Pháp không bị liên minh quân sự hùng mạnh của các vua Châu Âu bóp
chết. Sau khi chiếm gần trọn châu Âu, Napoleon đã gieo hạt giống tự do dân chủ
lên toàn châu lục này. Bộ luật DÂN SỰ của Napoleon rất tiến bộ, khẳng định
quyền tự do, quyền sống, quyền tư hữu của công dân, giải thoát người nông dân
châu Âu thoát khỏi vòng nô lệ của các lãnh chúa là bô luật vĩ đại, là bước tiến
lớn của lịch sử nhân loại. Sau hai trăm năm từ khi bộ LUẬT DÂN SỰ của Naponeon
ra đời, luật pháp, hiến pháp của các quốc gia Âu Mỹ hầu như vẫn còn giữ lại
tinh thần giải phóng, tinh thần tự do của Naponeon. Lấy việc xưng Hoàng Đế của
Napoleon để phủ nhận vai trò tiên phong của ông giữ gìn và phát huy tinh thần
tự do của cách mạng Pháp, Nguyễn Trần Bạt hầu như chưa nghiên cứu kỹ lịch sử thế
giới.
Nếu không có Naponeon, thế giới ngày nay chưa thể đạt
được sự toàn thắng của Tự do; trừ năm nước cộng sản: Trung – Việt – Triều – Cu
– Lào vẫn còn giữ chế độ độc tài, một chế độ mà Cách mạng Pháp và Naponeon đã
xóa sổ từ hơn hai trăm năm trước.
Còn có thể kể thêm hai cuộc cách mạng khác đã tạo tự do
cho nhân dân, là Cách Mạng Tân Hợi 1911 do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, lật đổ nhà
Thanh, mang lại nền cộng hòa cho dân tộc Trung Hoa, và cách mạng bất bạo động
của Mahatma Gandhi giành độc lập cho Ấn Độ năm 1947.
Cần phải trích thêm một đoạn văn khác của Nguyễn Trần
Bạt, để thấy sự ngộ nhận của ông về chuyện các cuộc cách mạng không mang lại tự
do là một lô cốt ông không thể vượt qua để đi tới khái niệm tự do: “Không có
hòa bình thì con người chạy trốn để tìm cách tồn tại. Tồn tại là mục tiêu của
những hoạt động phi hòa bình (tức chiến tranh)…Chính vì thế, tự do hoàn toàn
không phải là sản phẩm của các cuộc cách mạng…Các nhà cách mạng tạo ra một
trạng thái bịa đặt, một trạng thái được gọi là tự do sau khi ra khỏi tù…”(Sách
đã dẫn, trang 93,94,95)
Những nhận xét của ông Bạt trên đều không đúng. Chính
Naponeon đã dùng đại bác để rao giảng tự do, dùng chiến tranh để tạo dựng tự do
trên phần lớn các lãnh thổ châu Âu phong kiến.
Nhận thức về tự do của ông Bạt quả là ấu trĩ khi ông
viết: “Tự do không phải là giải phóng nô lệ vì giải phóng nô lệ là giải phóng
con người ra khỏi trạng thái bị giam hãm chứ không đem lại tự do thực sự cho
con người”(sách đã dẫn gtrang 94).
Viết như thế này, Nguyễn Trần Bạt đã vô tình xúc phạm
người anh hùng giải phóng nô lệ Abraham Lincoln?
Chúng ta còn có thể tìm thấy khá nhiều sự bất cập, thiếu
vắng tinh thần khoa học trong sách của ông Nguyễn Trần Bạt, không chỉ sai về
quan niệm tự do, mà còn sai nhiều nơi rải rác như khi ông bàn về dân chủ, về
kinh tế, văn hóa hay toàn cầu hóa…Hẹn bạn đọc trong một dịp khác chăng ?
Khi chúng tôi đang ngồi viết bài báo này thì nhận được
điện thoại của nhà báo, nhà thơ Lê Phú Khải gọi lên từ Cần Thơ: “ Này, Trần
Mạnh Hảo đừng để mất uy tín khi viết bài khen ngợi sách của ông Nguyễn Trần Bạt
nhá. Ông ta đã phản bội các cuốn sách của mình rồi. Vừa qua, ông Bạt trong một
bài trả lời phỏng vấn ca ngợi nhà nước cộng sản Việt Nam là không phải toàn
trị, không phải độc tài, nghĩa là ngầm khen nhà nước độc đảng này dân chủ. Ông
Bạt còn dám lăng nhục những người dân biểu tình đòi lại đất bị chính quyền ăn
cướp là bọn người ăn vạ chính phủ. Ông Bạt còn nói nghiên cứu xã hội thì phải
đứng trên lập trường của nhà cầm quyền …Nghĩa là ông Bạt đã lừa chúng ta bằng
các cuốn sách dân chủ dỏm, tự do lừa. Thực ra ông Bạt là con bài của nhà nước
đã bị lật mặt … Anh Hảo cho tôi ( LPK) nhắn với Nguyễn Trần Bạt rằng: ông ta là
một ngụy trí thức, là một người bỉ ổi … Anh Hảo hãy vào mạng xem bài của Phạm
Hồng Sơn viết về Nguyễn Trần Bạt…”
Tôi hơi bị choáng váng bởi hai cú điện thoại của nhà báo
Lê Phú Khải nói về ông Nguyễn Trần Bạt. Tôi đã vào mạng đọc bài của anh Phạm
Hồng Sơn, và phần nào thông cảm với sự nổi giận của anh Lê Phú Khải. Chỉ xin
trích những lời ông Nguyễn Trần Bạt trả lời phỏng vấn để bạn đọc phán xét,
trích từ bài báo :“Hơn
hai sai lầm nguy hiểm của ông Nguyễn Trần Bạt” của Phạm Hồng Sơn Tháng
9 4, 2012 in trên ©
2012 pro&contra.
Chúng tôi chỉ xin trích những lời phát biểu của ông
Nguyễn Trần Bạt, ngược hoàn toàn với tinh thần khai phóng, chan chứa nỗi niềm
tự do dân chủ của ông từng thể hiện trong các cuốn sách của ông, như sau :
“Ông Nguyễn Trần Bạt trả lời phỏng vấn Trung tâm dữ liệu các tổ chức phi
chính phủ.”[i]
Ông Nguyễn Trần Bạt phát biểu: “Và đến bây giờ, tôi kết luận là:
không có bất kỳ nguy cơ nào về mặt chính trị cho các nhà cầm quyền, cho Đảng
Cộng sản Việt Nam và cho chính phủ Việt Nam khi chúng ta có một xã hội dân sự
lành mạnh. Ngược lại, nó gỡ cho họ những gánh nặng khủng khiếp trong việc bành trướng cơ cấu nhà nước để tổ
chức quản lý xã hội, cái mà nhiều người không thiện chí gọi là toàn trị. Tôi
cho khái niệm toàn trị là một khái niệm thuần tuý lý thuyết. Xã hội chúng ta
thực ra cũng không toàn trị. Các nhà lãnh đạo của chúng ta không có ai toàn trị.”
Khi bàn đến vấn đề nhân quyền (quyền con người) ông
Nguyễn Trần Bạt có đưa ra hai nhận định:
Nhận định (1): “Người ta tưởng rằng
nhân quyền gắn liền với sự đòi đất, kêu oan, biểu tình, nhưng tôi không nghĩ
như vậy. Con người sở dĩ ăn vạ chính phủ là vì họ không có năng lực.”
Nhận định (2): ”Tôi đã có một kết
luận rằng nhân quyền không còn là quyền chính trị, nhân quyền là quyền phát
triển và chống lại rủi ro của cuộc sống.”
Về chỗ đứng của
nghiên cứu khoa học
Nguyễn Trần Bạt phát biểu: “Nghiên cứu xã hội học tức là anh phải đặt mình vào địa
vị của nhà cầm quyền, bởi vì bao giờ những nghiên cứu xã hội cũng phải bắt đầu
từ lực lượng xã hội mạnh nhất, mà lực lượng xã hội mạnh nhất chính là các đảng
chính trị cầm quyền. Vì nếu không xuất phát từ quyền lợi của các đảng chính trị
cầm quyền thì các khái niệm tử tế không hình thành được. Cho nên phải đặt mình
vào địa vị của họ để nghiên cứu cái mà mình muốn có hại gì cho họ không?”
Ông Nguyễn Trần Bạt ơi, sao lại quay ngoắt 180 độ như thế
này? Ông vừa mới phê phán đảng cộng sản Việt Nam là độc tài, là phi dân chủ, là
tước đoạt tự do của nhân dân Việt Nam, sao giờ ông lại đổi giọng nịnh đảng thế,
lại chửi dân oan, lại công khai nói ông đứng hẳn về phía chính quyền để nghiên
cứu xã hội. Ông đã làm tổn thương đến tình cảm của tôi dành cho ông trong hai
bài viết về những cuốn sách rất đáng đọc của ông.
Xin ông thương lấy những cuốn sách rất được của mình mà
đừng phản bội nó, hơn nữa lại đang tâm phản bội độc giả từng đánh giá cao ông,
ít ra là trong thái độ dũng cảm dám đương đầu với cường quyền.,.
Sài Gòn ngày 23-9-2012
Trần Mạnh Hảo
Tác giả gửi cho NTT blog
No comments:
Post a Comment