Phạm Bá Hoa
Tuesday,
September 11, 2012 3:13:52 PM
Trong cuộc sống, sự thành công hay thất bại nào cũng có cái giá
của nó. Trong chiến tranh cũng vậy, cái giá của những chiến tích lừng danh mà
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) phải trả, là những đồng đội đã hy sinh,
những đồng đội khác đã để lại một phần thân thể trên khắp miền đất nước, và hệ
lụy dài lâu là những đứa trẻ vĩnh viễn xa cha, những người vợ vĩnh viễn xa
chồng!
Người
quân nhân hy sinh vì tổ quốc, là sự hy sinh cao cả mà tổ quốc mãi mãi ghi công.
Nhưng, hình ảnh người quả phụ, với một nửa tâm hồn, một nửa con tim, một nửa
phần hơi thở, theo chồng lên đài tổ quốc ghi công, và những nửa còn lại có
trách nhiệm trang bị cho các con một hành trang vào đời, phải được thừa nhận là
sự hy sinh không kém phần cao cả như người chồng dũng cảm nơi chiến trường, rất
xứng đáng được kính trọng.
Cũng
trong chiến tranh, chồng ở chiến trường, vợ ở nhà quán xuyến công việc gia đình
mà công việc gia đình nhiều đến nỗi có những việc chưa kịp đặt tên, nhưng tất
cả đều là việc. Chăm sóc các con, chăm sóc tình thân gia đình quyến thuộc, chăm
sóc tình bạn bè bằng hữu. Ðể rồi, những giờ phút yên tĩnh về đêm khi các con
chìm trong giấc ngủ, mơ màng nghĩ đến chồng nơi chốn xa xôi, hay đang trong
chiến trường khốc liệt, với bao khắc khoải lo âu, sầu muộn!
Rồi
chiến tranh chấm dứt trong nỗi nghẹn ngào uất hận, bởi đây là cuộc chiến mà
cuối cùng “bị chấm dứt để thua trận”! Sau lời tuyên bố của vị tổng thống cuối
cùng, hàng trăm ngàn đồng bào, quân nhân, viên chức, cán bộ, bỏ của chạy lấy
người, tị nạn trên đất Mỹ. Với những thành phần tương tự như vậy gồm 222,809
người, lũ lượt bị lừa vào 200 trại tù trên khắp miền đất nước. Người 5 năm, 10
năm, 15 năm, thậm chí 17 năm ròng rã, do lòng thù hận tột cùng của nhóm lãnh
đạo cộng sản Việt Nam. Hằng trăm ngàn gia đình di tản ra ngoại quốc, cũng như
hằng chục triệu gia đình còn lại trên quê hương, tất cả đều hụt hẫng. Hụt hẫng
vì cuộc sống trên đất người với biết bao xa lạ trong một xã hội kỹ nghệ mà bước
đầu chưa thể hội nhập. Hụt hẫng vì phút chốc, từ chế độ tự do bị đẩy vào chế độ
độc tài trên toàn cõi nước Việt Nam!
Cảnh
đời thứ nhất. Trong cuộc đời tị nạn, vợ chồng con cháu có cơ hội bên nhau, cùng
chia sẻ khổ đau, cùng gánh vác nhọc nhằn, cùng nhận chung nỗi nhục! Nỗi nhục
phải rời khỏi quê hương trong thân phận lưu vong! Với những bà vợ chúng ta, vốn
sinh ra và trưởng thành trong xã hội nông nghiệp, nay phải cùng chồng từng bước
hội nhập vào xã hội kỹ nghệ nơi định cư, đã phải đêm đêm đếm bước từ bến xe
công cộng về nhà trong màn tuyết lạnh sau những giờ nhọc nhằn nơi hãng xưởng.
Lạnh đến nỗi không biết giọt nước lăn trên má là nước mắt, hay mảnh tuyết vừa
tan!
Cảnh
đời thứ hai. Trong xã hội mà kẻ thắng trận đầy lòng thù hận, thì gia đình ly
tán, sự sống bị bóp nghẹt đến tận cùng của khổ đau, của nước mắt bởi chính sách
bịt mắt bịt tai bịt miệng! Cái chế độ mà những người lãnh đạo luôn miệng huênh
hoang là “dân chủ gấp trăm lần dân chủ tư bản,” lại bắt mọi người phải sống
trong nỗi sợ hãi triền miên với những đôi mắt rình rập quanh năm suốt tháng!
Cảnh
đời thứ ba. Riêng với những bà vợ ở lại mà chồng đã vào tù, còn tệ hơn nhiều so
với hai cảnh đời nói trên. Hằng ngày phải đối phó với bọn cầm quyền địa phương,
cái bọn mà đầu óc toàn đất sét và rác rưởi, chỉ biết đàn áp để cướp đoạt. Ðồng
thời phải chăm lo cuộc sống các con từng ngày, lo nuôi chồng từng tháng!
Và
những bà vợ chúng ta, hải ngoại hay trong nước, thật sự là Những Người Ðàn Bà
Việt Nam rất can đảm khi phải chịu đựng và vượt qua nỗi đau nỗi nhục đó! Ðau
đến nỗi không còn nước mắt để khóc, nhục đến nỗi chẳng còn lời để than! Nếu đem
so sánh giữa hai cảnh đời trong nước với ngoài nước, thử hỏi: “Ai đau hơn ai và
ai nhục hơn ai?” Với tôi, không ai đau hơn ai, cũng không ai nhục hơn ai! Vì
nỗi đau nào cũng có cái đau riêng của nó, nỗi nhục nào cũng có cái nhục riêng
của nó! Xin những ông chồng diễm phúc, hãy nhìn lại đôi nét về hình ảnh Những
Bà Vợ
Chúng
Ta trong cuộc sống khổ đau thầm lặng đó, mà người viết được những bà vợ trong
cuộc kể lại:
Một
cảnh đau thương. Một bà vợ cùng con cầm giấy phép “gánh gạo”nuôi chồng trên đất
Bắc. Ba ngày đi, ba ngày về, 2 tiếng đồng hồ gặp gỡ! Khi trở về cư xá Bắc Hải,
nhà bị niêm phong với dòng chữ “Nhà vắng chủ.” Ðau đớn biết bao! Xót xa biết
dường nào! Bỗng dưng nhà bị mất! Bà gục đầu vào cửa! Bà cùng gia đình định cư
tại Houston, Texas từ tháng 4 năm 1991.
Một
cảnh đau thương khác. Một bà vợ đã bao nhiêu lần bị công an phường ra lệnh đi
khu kinh tế mới, nhưng bà vẫn không đi. Chúng hành hạ bằng cách gọi bà đến văn
phòng, bảo ngồi đó từ đầu giờ đến cuối giờ, ngày nào cũng vậy, và ròng rã 6
tháng như vậy. Một hôm, chúng bảo đưa giấy tờ nhà để giải quyết. Khi chụp được
hồ sơ, lập tức tên công an ra lệnh trong vòng 24 tiếng đồng hồ bà phải ra khỏi
nhà. “Ôi! Còn nỗi đau nào cao hơn nỗi đau này trong cảnh đời thua trận!” Bà
xiêu vẹo trên đường về nhà cách đó mấy dãy nhà liên kế cũng trong cư xá Bắc
Hải, và gục ngã ngay trước nhà! Bà cùng gia đình định cư vùng Bắc California từ
năm 1993, nhưng chồng đã qua đời vào năm 2003.
Một
cảnh đau thương khác nữa. Một bà vợ có chồng bị giam trên đất Bắc hằng chục năm
trời, bỗng dưng mất liên lạc. Bà lặn lội khắp các cơ quan tại Sài Gòn, Hà Nội,
tốn kém, mệt nhọc, nhưng hoàn toàn bặt tin. Nỗi buồn đến với bà quá sức chịu
đựng của người phụ nữ tuổi 50, mà có lúc bà cảm thấy như mình đang bên bờ vực
thẳm, rồi ngã dần xuống... Bà bị tai biến mạch máu não, nằm bất động một chỗ.
Nhiều
tháng sau đó, bất ngờ, người nhà của bà nhận được giấy cho phép bà thăm chồng.
Trại tù chỉ cách nhà vỏn vẹn 1 cây số (khám Chí Hòa). Bạn bè khiêng bà đến nhà
tù. Cả hai “chồng đứng đó vợ liệt toàn thân,” chỉ biết nhìn nhau, òa khóc...!
Khóc cho mình! Khóc cho cuộc đời! Phải chăng, mọi khổ đau trên cõi đời này đang
bao quanh hai con người đau khổ đó? Không. Không chỉ có vậy. Mà là tất cả những
bà vợ có chồng bị cộng sản giam giữ trong tù, tiêu biểu qua 3 cảnh đời trên đây
trong hàng vạn cảnh đời trên đất nước Việt Nam, đều trong nỗi khổ tột cùng đó!
Tình trạng bại liệt đó theo bà cùng chồng định cư tại Houston, nhưng rồi bà đã
từ trần năm 2004!
Sài
Gòn-Hà Nội 1,736 cây số, xe lửa tốc hành chạy 72 tiếng đồng hồ, tức 3 ngày 3
đêm. Mỗi người chỉ được mang theo 20 kí lô lên xe lửa, mang nhiều hơn số đó
phải hối lộ cho một loạt nhân viên từ cổng vào cho đến nhân viên trên xe lửa.
Hành lý ngổn ngang cả trên lối đi giữa toa xe. Ban ngày cũng phải lách từng
bước chân vào chỗ trống. Còn ban đêm, thật khó mà tưởng tượng! Hai băng ngồi
đối diện, một băng 3 người. Hai băng phía bên kia lối đi, mỗi băng 2 người
ngồi. Hai đầu trên của hai băng 6 người, máng được 3 cái võng cho 3 người, 1
người nằm co quắp trên sàn xe đen đúa nhầy nhụa giữa 2 băng đối diện, và 2
người còn lại cũng nằm co quắp trên 2 băng ngồi. Nếu nhìn toàn cảnh của toa xe
sẽ thấy, băng ngồi đầy người nằm, những chiếc võng bé xíu che kín trên đầu
băng, cả lối đi vốn dĩ đã nhỏ hẹp cũng đầy người nằm chen lẫn trong đống hành
lý thật hỗn độn. Những bà vợ thăm chồng, mang theo hằng trăm kí lô, biết bao là
nhọc nhằn gian khổ! Giả thử, nếu những ông chồng chứng kiến những hành khách
nằm cong queo trong cái gọi là chiếc võng kia, hay co quắp giữa những gói quà
đầy ắp tình thương trên sàn xe nhớp nhúa đó, là những bà vợ của mình, liệu có
cầm được nước mắt không? Nghe nói lại, nghe thuật lại, ông chồng nào cũng đớn
đau thương cảm cho tình cảnh những bà vợ quanh năm gánh gạo nuôi chồng! Nhưng
không có đớn đau thương cảm nào có thể đem cân bằng nỗi đớn đau thương cảm của
những bà vợ trọn tình vẹn nghĩa như vậy được cả!
Tôi
hình dung những bà vợ chúng ta qua hình ảnh trên đây mà chính tôi trông thấy khi
tôi ra trại tập trung cùng với 90 “bạn đồng tù,” từ Nam Ðịnh về Sài Gòn bằng xe
lửa đúng 72 tiếng đồng hồ hồi tháng 9 năm 1987.
Trên
đây là một cố gắng dựng lại hình ảnh “Những Bà Vợ Chúng Ta,”nếu không rõ nét
thì ít ra cũng là những nét chính của hình ảnh ấy, qua sự kết nối bốn hợp phần
sau đây:
Hai
hợp phần trong chiến tranh, là những bà vợ mà chồng đã hy sinh, và những bà vợ
mà chồng đang chiến đấu.
Hai
hợp phần sau chiến tranh, là những bà vợ cùng chồng con di tản ngoại quốc, và
những bà vợ ở lại Việt Nam, vừa nuôi con trong một xã hội đầy hận thù và kỳ
thị, vừa nuôi chồng trong những trại tập trung nghiệt ngã!
Những
cảnh đời bi thương, những khổ đau sầu muộn, những nước mắt, mồ hôi, được khơi
lên từ những góc cạnh li ti trong hằng vạn hằng vạn cảnh đời như vậy, mà Những
Bà Vợ Chúng Ta đã chịu đựng trong những năm dài thật dài!
Quyển
Chân Trời Dâu Bể của Giao Chỉ, kể chuyện trên đất Mỹ, và quyển Giữa Dòng Nghịch
Lũ của Duy Năng, kể chuyện trên quê hương Việt Nam. Hai tác phẩm này trong một
mức độ nào đó, có thể xem là tiêu biểu cho rất nhiều tác phẩm dưới dạng chuyện
kể thật bình thường, nhưng ôm ấp biết bao xót xa thương cảm cho thân phận người
phụ nữ Việt Nam sau ngày thua trận, dù sống trong hai xã hội cách nhau nửa vòng
trái đất. Với tác phẩm của Duy Năng, người kể chuyện là bà Hàng Phụng Hà. Bà là
một trong số hằng trăm ngàn bà vợ thăm nuôi chồng trong tù. Ở phần kết, bà nói:
“...Các
anh trong tù, khổ về vật chất và đau về tinh thần đến vạn lần, điều đó chúng
tôi biết. Nhưng, chúng tôi - những bà vợ của các anh - đau khổ gấp ngàn cái vạn
lần của các anh nữa, các anh có biết không? Tôi không đề cao một bà vợ nào, mà
tôi đề cao tất cả những bà vợ thăm nuôi chồng trong các trại tù cải tạo. Bởi
vì: Họ, đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam. Họ, rất xứng đáng được
các anh kính trọng. Và Họ, chính là Vợ Của Các Anh.”
Vì
vậy mà một số bạn đồng tù chúng tôi trong trại tập trung, đã không quá lời khi
nói với nhau rằng: “Ra tù, chúng ta phải cõng vợ chúng ta đi vòng quanh trái
đất, để đền bù đôi chút về sức chịu đựng biết bao nhọc nhằn gian khổ đã nuôi
các con và nuôi chúng mình.”
Bây
giờ nhìn lại, trong một ý nghĩa nào đó, những cựu tù nhân chính trị chúng ta,
đã cõng vợ đi được nửa vòng trái đất rồi. Ðến ngày Việt Nam thật sự tự do dân
chủ, chúng ta sẽ cõng vợ trở về quê hương là trọn vòng trái đất như đã tự hứa,
phải không quí vị?
Với
nét chân dung đó, tôi quả quyết rằng, Những Bà Vợ Chúng Ta rất xứng đáng được
vinh danh. Và nếu quí đồng đội và quí vị đồng hương đồng ý với tôi, chúng ta
cùng nói to lên rằng:
“Chúng
ta cùng vinh danh Những Bà Vợ Chúng Ta là những người đàn bà cao cả, rất xứng
đáng được kính trọng. Bởi, trong hoàn cảnh nghiệt ngã của chế độ độc tài cộng
sản, nhưng đã đứng vững trong phẩm giá Người Vợ Miền Nam, cùng lúc, chu toàn thiên
chức làm Mẹ, và tròn bổn phận làm Con.”
Vinh
danh bằng những tiếng nói ân tình bên tai vợ, trao tặng vợ một bông hồng thật
đẹp, hôn vợ những nụ hôn thật dài. Ðiều đó luôn nhắc nhở người chồng trong cuộc
sống thường ngày, phải thể hiện lòng hiểu biết vợ mình nhiều hơn, cảm thông vợ
mình nhiều hơn, rồi quàng tay vào lưng vợ mình chặt hơn, để cùng nhau đi suốt
chiều dài còn lại trong cuộc sống lứa đôi thật mặn nồng, như chưa bao giờ mặn
nồng đến như vậy. Trường hợp vì lý do gì đó mà bạn đang sống một mình, xin bạn
hãy gắn bông hồng màu đỏ lên nơi nào mà khi nằm nghỉ bạn đều trông thấy, để
trao tặng vợ khi đoàn tụ bên nhau. Hoặc sự trông thấy đó, sẽ giúp bạn có được
những giây phút sống lại những năm tháng mặn nồng trong tình yêu vợ chồng thuở
chung chăn chung gối, thuở mà hai người dùng chung một tên.
(Trích
- Ðôi Dòng Ghi Nhớ (Hồi Ký Chính Trị 1963-1975) của Cựu Ðại Tá Phạm Bá Hoa.)
No comments:
Post a Comment