Carl Thayer
Người dịch: Dương
Lệ Chi
Posted by basamnews
on 10/07/2012
Câu hỏi: Tại đại hội đảng gần đây, các đảng viên đã loan báo
rằng Đảng Cộng sản Việt Nam nên “cải cách hay là chết”, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã làm gì để cố gắng thực hiện khẩu hiệu mới này, họ đã làm được nhiều điều cho
tự do hay dân chủ hóa hay chưa?
Đáp: “Cải cách hay là chết” là một khẩu hiệu lần đầu tiên
được nghe trong thập niên 1970 khi hệ thống nhà nước theo kiểu Liên Xô của Việt
Nam lên kế hoạch phân phối hàng hóa và dịch vụ cho những người nông dân và công
nhân thành thị, nhưng đã bị thất bại nặng nề. “Cải cách” ở Việt Nam hiện có
nghĩa là dân chủ tự do hoặc thậm chí có những bước thăm dò theo hướng dân chủ
hóa. Có nghĩa là điều chỉnh theo hướng kinh tế XHCN và hệ thống chính trị một
đảng để giữ chế độ hiện hành nắm quyền. Các đại biểu Đảng chủ yếu tập trung vào
việc làm thế nào chấm dứt nạn tham nhũng tràn lan hiện đang phổ biến rộng rãi,
đã được xác định như là mối đe dọa chính đến tính hợp pháp về chính trị của
đảng. Và họ cũng tập trung vào khu vực nhà nước, khu vực có được đặc quyền nhờ
vay những món nợ ưu đãi và giá đất tăng cao. Cải cách doanh nghiệp nhà nước bị
đình trệ, và các tập đoàn lớn thuộc sở hữu nhà nước, chẳng hạn như Tập đoàn
Công nghiệp Tàu thủy Quốc gia, Vinashin, Tổng Công ty Hàng hải Quốc gia,
Vinalines, đang trong cảnh nợ nần tồi tệ qua việc đa dạng các hoạt động, và đầy
dẫy tham nhũng. “Cải cách hay là chết” trong bối cảnh hiện nay có nghĩa là, đưa
chuyện nội bộ của Việt Nam vào trật tự, đặc biệt là nền kinh tế, để Việt Nam có
thể cạnh tranh sinh lợi trên thị trường toàn cầu.
Câu hỏi: Trung tâm quyền lực chính ở Việt Nam là gì? Các đảng
viên cấp tỉnh, quân đội hay chính phủ nắm giữ? Quyền lực ở đất nước này được
phân bổ như thế nào? Nó ảnh hưởng đến chính trường như thế nào?
Đáp: Trung tâm quyền lực của Việt Nam được trao cho khối đại
diện Trung ương Đảng và các thành phần này (tôi đặt tên cho họ) đã được thống
nhất đại diện từ năm 1982. Có 4 trung tâm quyền lực: bộ máy đảng gồm Ban Bí thư
và các ủy viên Trung ương Đảng; bộ máy chính phủ được chia giữa Chính phủ (Nội
các) và Quốc hội, các lực lượng vũ trang và chính quyền tỉnh. Có sự căng thẳng
giữa việc sử dụng quyền lực cấp trung ương (cấp quốc gia – Hà Nội) và cấp địa
phương (năm thành phố độc lập và các tỉnh). Các lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở
trung ương phải đối phó với “các vương quốc độc lập” ở cấp địa phương. Điều này
có nghĩa là việc áp dụng luật quốc gia đôi khi bị tránh né.
Một trong những ví dụ rõ nhất về căng thẳng
sôi sục liên quan đến cam kết của lãnh đạo chính phủ Việt Nam với Hoa Kỳ là tôn
trọng tự do tôn giáo, gồm cả việc ngưng bắt buộc từ bỏ tôn giáo. Bất chấp luật
pháp quốc gia và các nghị định, các quan chức địa phương vẫn có thể tìm cớ để
đàn áp các phong trào tôn giáo độc lập, như phong trào Tin lành ở Tây Nguyên và
phong trào Thiên Chúa giáo của dân tộc thiểu số Hmong ở các tỉnh Tây Bắc.
Câu hỏi: Chủ tịch nước và Thủ tướng, ai là người cải cách
nhiều hơn? Và điều này ảnh hưởng đến đất nước như thế nào?
Đáp: Cả chủ tịch nước và Thủ tướng là lãnh đạo đảng ở miền nam
và đặc biệt ở Thành phố Hồ Chí Minh. Họ thúc đẩy cải cách kinh tế, cho phép
doanh nghiệp tư nhân phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài. Sự khác biệt giữa
họ là những cuộc xung đột cá nhân. Ông Nguyễn Tấn Dũng đã phá vỡ khuôn mẫu của
sự lãnh đạo tập thể và nổi lên gần như là một nhà lãnh đạo nổi tiếng. Ông ấy
nổi tiếng trên các phương tiện truyền thông cả trong và ngoài nước. Ông Dũng
đang trong nhiệm kỳ thứ hai trên cương vị thủ tướng. Ông Trương Tấn Sang tương
đối mới với chức chủ tịch nước, mới được bổ nhiệm hồi năm 2011. Trước đó, ông
là người đứng đầu Ban Bí thư Đảng. Ông Sang và một số đồng minh của ông đã dẫn
đầu chống lại Thủ tướng Chính phủ trong nhiệm kỳ đầu [ông Dũng làm thủ tướng],
khi chính sách kinh tế của ông ấy dẫn tới lạm phát rất cao. Triển vọng tăng
trưởng của Việt Nam tiếp tục bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu năm 1997-1998. Tôi không chắc chắn “cải cách” hoàn toàn nắm bắt các động
lực chính trị hiện tại. Ông Sang và nhóm người của ông quan ngại rằng, nếu các
chính sách kinh tế không thay đổi, sẽ có bất ổn xã hội. Nên Thủ tướng Chính phủ
bị Bộ Chính trị kiềm chế. Việt Nam đã thông qua một gói kích thích kinh tế
chính thức và vượt qua cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Động lực chính trị quan trọng là chủ tịch
nước muốn có nhiều quyền hành hơn và được tham gia vào một số vấn đề lớn hơn.
Ông ấy và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cùng chia sẻ mối quan tâm về việc
“kiểm tra và cân bằng” thủ tướng.
Câu hỏi: Tôi đọc tin, biết rằng ban [chỉ đạo phòng chống]
tham nhũng hiện do đảng lãnh đạo? Đây không phải là một dấu hiệu xấu?
Đáp: Lần đầu tiên khi Nguyễn Tấn Dũng được bầu làm thủ
tướng, ông ấy thành lập Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng với chính ông ấy là
người đứng đầu. Ông ấy đã nhấn tất cả các nút để tăng tốc độ điều tra của cảnh
sát và các thủ tục tố tụng tư pháp chống lại những vụ bị cáo buộc tham nhũng
lớn. Thời gian trôi qua, cao su chạm với mặt đường nên sinh ra ma sát, và động
lực chống tham nhũng chậm lại, Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về các vụ bê bối
tham nhũng khổng lồ trong 2 tập đoàn lớn của chính phủ mà ông ấy kiểm soát trực
tiếp. Cuối năm ngoái, ông ấy bị buộc ra trước Quốc hội và nhận trách nhiệm về
chuyện Vinashin không trả nợ đúng hạn các khoản vay nước ngoài. Năm nay, ông ấy
bị áp lực phải nhận trách nhiệm về việc bổ nhiệm một quan chức đứng đầu
Vinalines, đã bị bãi nhiệm trước đó.
Thủ tướng không có khả năng kiểm soát tham
nhũng, dẫn đến kết quả là đảng đã loại bỏ ông ấy ra khỏi Ban Chỉ đạo [phòng
chống tham nhũng] và để những người do đảng chỉ định kiểm soát. Một vấn đề
trong việc trừng trị các vụ tham nhũng lớn là, nó liên quan đến các đồng minh
chính trị của các nhà lãnh đạo hàng đầu.
Câu hỏi: Kể từ năm 2011, có một cuộc đàn áp những người sử
dụng internet và các nhà hoạt động, chính phủ đang có kế hoạch đưa các luật mới
để hạn chế việc sử dụng internet. Vấn đề này ở Việt Nam nghiêm trọng như thế
nào?
Đáp: Từ quan điểm của các cơ quan an ninh và các nhà bảo thủ
trong đảng, việc sử dụng Internet của các blogger và các mạng xã hội để nêu các
vấn đề chính trị và chỉ trích chính phủ, là mối đe dọa lớn đối với khả năng
kiểm soát thông tin và sự phổ biến thông tin. Internet cho phép sự xuất hiện
mạng lưới liên minh ủng hộ dân chủ của đất nước, được biết đến như khối 8406,
lấy tên từ ngày thành lập khối này là ngày 8 tháng 4 năm 2006. Các nhà hoạt
động chính [của khối 8406] đã bị bắt và bị cầm tù. Các blogger đã trở nên tích
cực trong một phong trào xã hội lớn, phản đối khai thác boxit ở Tây Nguyên, một
dự án được sự quan tâm nhất của thủ tướng, liên quan đến đầu tư từ Trung Quốc.
Gần đây, các blogger và các nhà hoạt động xã hội đã bắt đầu thúc giục chống
Trung Quốc trong tranh chấp Biển Đông. Điều này khơi dậy chủ nghĩa dân tộc
chống Trung Quốc. Chính phủ của đảng cảm thấy bị đe dọa vì điều này sẽ làm suy
yếu chủ nghĩa dân tộc [mà đảng đã gầy dựng] như điều căn bản về tính hợp pháp
cho sự cầm quyền độc đảng.
Mặc dù thực tế là Hoa Kỳ đã nhiều lần cảnh
báo Việt Nam rằng, mối quan hệ song phương của họ không thể nâng lên cấp độ cao
hơn trừ khi vấn đề nhân quyền được giải quyết, nhưng Việt Nam vẫn tiếp tục đàn
áp các blogger. Nói cách khác, các vấn đề được một số người bảo thủ trong đảng
xem là quá nghiêm trọng để họ sẵn sàng hủy bỏ các mối quan hệ với Hoa Kỳ (và vì
thế đối trọng với Trung Quốc) để đáp ứng các mối đe dọa nội bộ. Sự sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu năm 1989 và sự tan rã của Liên Xô hai năm sau đó vẫn
là bài học sâu sắc mà chủ nghĩa xã hội độc đảng cảm thấy không an toàn để thay
đổi.
Câu hỏi: Việt Nam đương đầu với sự suy giảm kinh tế và lạm
phát tăng cao như thế nào? Ông có nghĩ rằng áp lực kinh tế có thể đẩy mọi người
xuống đường tương tự như những gì thế giới Ả Rập đã chứng kiến?
Đáp: Việt Nam có các kết quả hỗn hợp. Việt Nam có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, hợp lý, chỉ dưới 6%, và lạm phát đã giảm xuống từ tỉ
lệ lạm phát cao là 23% trong năm 2008. Xuất khẩu Việt Nam sang thị trường châu
Âu và Bắc Mỹ không còn phát triển ở tốc độ như trước đây. Lạm phát chủ yếu ảnh
hưởng đến các khu vực thành thị và những người mới phất trong đảng cũng như các
cán bộ nhà nước. Những lời than phiền gia tăng về ùn tắc giao thông liên tục, ô
nhiễm, cúp điện và chi phí sinh hoạt. Nhưng không có bằng chứng thật sự nào cho
thấy, những người này phụ thuộc vào chế độ sẽ xuống đường. Họ đã được hưởng lợi
từ hệ thống. Theo quan điểm của họ, hệ thống này không là gì cả trừ chuyện áp
bức. Hệ thống chính trị Việt Nam tạo ra quá trình chuyển đổi thế hệ có trật tự.
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước phải nghỉ hưu ở tuổi 65 và chỉ có thể lãnh đạo nhiều
nhất là hai nhiệm kỳ. Những người tuyên truyền cho chế độ ở Việt Nam bám vào
tình trạng bất ổn ở nước ngoài như là một bài học cụ thể để cảnh báo công dân
của họ – thay đổi quá nhiều sẽ dẫn đến hỗn loạn và bất ổn, và hủy hoại những
điều kiện sống mà khó khăn lắm họ mới có được.
Câu hỏi: Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong những năm
gần đây và đặc biệt đối với Mỹ, đã thay đổi nhiều như thế nào?
Đáp: Đứng trên quan điểm rộng lớn thì chính sách đối ngoại
của Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn. Việt Nam đã từng có quan điểm nhị phân về
thế giới: chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa đế quốc. Đó là một cuộc đấu tranh
sống còn, theo khẩu hiệu “Ai sẽ chiến thắng”. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, Việt
Nam thông qua chính sách đa dạng hóa, đa phương chính sách đối ngoại của mình
để trở thành một đối tác đáng tin cậy cho tất cả các nước. Nếu câu này nghe có
vẻ nhàm chán, nhìn vào kết quả: năm 1991 Trung Quốc và Việt Nam bình thường hóa
quan hệ sau một thập kỷ đối đầu trong cuộc chiến ở Cambodia; Nhật Bản khôi phục
hỗ trợ phát triển nước ngoài [cho Việt Nam], và năm 1995, Việt Nam và Hoa Kỳ
bình thường hóa quan hệ và Việt Nam gia nhập ASEAN.
Việt Nam là nước ở châu Á đã được chọn làm
ứng viên vào chức ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc và
được Đại Hội đồng LHQ bầu với số phiếu áp đảo.
Về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ: kể từ khi
bình thường hóa quan hệ, hai nước đã ký Hiệp định Thương mại Song phương và
hiện đang đàm phán để làm thành viên Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương.
Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất của Việt Nam. Báo cáo Quốc phòng bốn năm một lần
của Mỹ gần đây nhất đã xác định Việt Nam là một đối tác chiến lược tiềm năng.
Năm 2010, khi Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đến thăm Hà Nội, bà đã kêu gọi
nâng mối quan hệ song phương lên cấp độ mới và đề nghị mối quan hệ đối tác
chiến lược. Các cuộc đàm phán hiện đang bị sa lầy vì các vấn đề nhân quyền.
Quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt đã phát triển
chậm từ năm 2003 khi [hai bên] đồng ý trao đổi các cuộc thăm viếng qua lại giữa
Bộ trưởng Quốc phòng [hai nước] ba năm một lần. Bộ trưởng Panetta vừa đến thăm
Việt Nam. Từ năm 2003, Hải quân Mỹ được phép cập cảng Việt Nam một lần trong
năm. Năm 2010, Mỹ – Việt đã tiến hành các hoạt động hải quân hàng năm đầu tiên
(không phải các cuộc tập trận liên quan đến kỹ năng chiến đấu). Năm ngoái, Việt
Nam và Hoa Kỳ đã nâng cấp đối thoại chiến lược giữa Bộ Quốc phòng hai nước lên
cấp thứ trưởng và đồng ý ký một Bản Ghi nhớ về hợp tác quốc phòng.
Trong chuyến thăm của Bộ trưởng [Quốc phòng
Mỹ] Panetta, ông ấy đã được phép đến thăm Vịnh Cam Ranh, căn cứ của Mỹ trước
đây. Nhiều năm qua, Việt Nam đã lặng lẽ tiến hành sửa chữa 5 tàu thuộc Bộ Tư
lệnh Hải vận Hoa Kỳ (US MSC). Những con tàu này không phải tàu chiến, mà là tàu
hậu cần với thủy thủ đoàn là thành phần dân sự. Ba lần sửa chữa gần đây nhất đã
được thực hiện ở Vịnh Cam Ranh. Khi ông Panetta gặp người đồng nhiệm phía Việt
Nam ở Hà Nội, Việt Nam thông báo rằng họ mở cửa ba khu vực để phục hồi việc tìm
kiếm người Mỹ mất tích khi làm nhiệm vụ (MIA), đã bị hạn chế trước đây.
Một trong những điểm trở ngại trong hợp tác
quốc phòng là luật pháp Hoa Kỳ ngăn cấm việc bán thiết bị quân sự và vũ khí sát
thương cho Việt Nam và cũng hạn chế các quy định liên quan đến nhiều dịch vụ
quân sự với Việt Nam. Việt Nam có thể mua một số thiết bị quân sự không sát
thương và dịch vụ quân sự trong từng trường hợp cụ thể.
Đề nghị trích dẫn: Carlyle A. Thayer, “Việt Nam: ‘Cải cách hay là chết’“, Thayer Consultancy,
ngày 5-7-2012.
Nguồn: Thayer Consultancy
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
No comments:
Post a Comment