Jul
9, 2012 11:25 PM
Trong
một bài viết trước đây liên quan đến chiến lược biển Đông và chủ quyền của VN ở
các quần đảo HS và TS, tác giả có nêu vấn đề về tính liên tục quốc gia và sự kế
thừa giữa các chính phủ và hai miền VN sau 1975. Những ý kiến đó hôm nay được
bàn rộng thêm.
Trước
hết là quan niệm quốc gia (và nhà nước) theo công pháp quốc tế. Với quan niệm
quốc gia này, từ năm 1945 đến nay hiện hữu bao nhiêu quốc gia Việt Nam ?
Quốc gia nào đại diện nước Việt Nam duy nhứt trước các định chế quốc tế ?
Tính liên tục và kế thừa về lãnh thổ giữa các quốc gia này từ các biến cố 1954,
hay năm 1975 đến nay đã được thực hiện như thế nào ? Trường hợp đặc biệt,
do các tuyên bố và những hành vi mặc nhiên công nhận của nhà nước VNDCCH trong
các thập niên 50, 60 và 70 về chủ quyền của TQ ở hai quần đảo HS và TS, các
tuyên bố này có giá trị ràng buộc cho nước VN thống nhứt hay không ?
Bài
viết này lần lượt trình bày sơ lược quan điểm của tác giả về các vấn đề này.
1. Quốc gia và các nguyên tắc về công pháp quốc tế:
Trước
hết nên hiểu thế nào về thuật ngữ « quốc gia » theo quan niệm Công pháp
quốc tế.
« Quốc
gia – l’Etat » được cấu thành do ba yếu tố : người dân, lãnh thổ và
một chính phủ. Yếu tố người dân đặt vấn đề về « quốc tịch –
nationalité ». Yếu tố « lãnh thổ » đặt vấn đề « chủ quyền -
souveraineté », đưa đến việc phân định biên giới (trên đất liền và trên
biển) giữa các quốc gia láng giềng. Yếu tố « chính phủ -
gouvernement », tức một tổ chức chính trị có khả năng tổ chức hành chính
và thiết lập trật tự và an ninh xã hội cho cộng đồng dân chúng trong quốc gia
đó. Yếu tố Chính phủ đặt ra vấn đề « độc lập ». Tức chính phủ này
không bị lệ thuộc vào một thế lực nước ngoài.
Công
pháp quốc tế hiện nay còn đặt ra tiêu chí xứng đáng về một nhà nước (chính
phủ), tức « tư cách - dignité », để có thể công nhận hay không một
chính phủ. Một nhà nước « xứng đáng » được đánh giá trên việc có đem
lại an ninh và hạnh phúc cho người dân trong nước hay không. Một nhà nước hung
tàn, bạo ngược, như nhà nước cộng sản Khmer (Khmer đỏ), nhà nước cộng sản bắc
Triều Tiên, nhà nước cộng sản Việt Nam sau 75 (cho đến thập niên 90), Irak dưới
thời Sadam Hussein, Serbie dưới thời Milosevic, Lybye dưới thời Khadafi hay
Iran và Syrie hiện nay v.v… là các nhà nước không « xứng đáng »,
thường bị cộng đồng quốc tế (ONU) « lên án », hay cắt đứt ngoại giao,
thậm chí còn có bổn phận can thiệp để chấm dứt sự đau khổ của người dân ở các
nước này.
Trong
quan hệ quốc tế, việc công nhận một quốc gia là hành vi theo đó một quốc gia
thiết lập bang giao với một quốc gia khác. Việc công nhận quốc gia là chấp nhận
các yếu tố đặc thù về công dân, lãnh thổ và chính phủ của quốc gia đó. Giả sử,
khi nước Pháp công nhận nhà cầm quyền Bắc Kinh là chính thống lãnh đạo nước TQ
thì Pháp mặc nhiên công nhận một nước Trung Hoa duy nhứt (tức công nhận Bắc
Kinh thì không công nhận Đài Bắc) và Tây Tạng là lãnh thổ của TQ.
Việc
công nhận quốc gia là quan trọng vì nó xác định sự hiện hữu của một quốc gia
trên sân khấu quốc tế. Thủ tục công nhận thể hiện qua các việc trao đổi lãnh
sự, ký kết các hiệp ước, hay bằng một tuyên bố đơn phương giữa các quốc gia.
Việc công nhận có thể mang tính pháp lý « de jure », tức công nhận
quốc gia như là chủ thể duy nhất, bình đẳng về độc lập và chủ quyền trước Công
pháp quốc tế. Hoặc « de facto », tức một hình thức công nhận tạm thời
cho những quốc gia đang thành hình.
Về
nguyên tắc một quốc gia duy nhứt, đại diện quốc gia ở các định chế quốc tế là
duy nhứt. Trường hợp một quốc gia bị phân chia, tức có hai vùng lãnh thổ khác
biệt, có hai nhóm dân chúng khác biệt (mặc dầu có cùng quốc tịch), do hai chính
phủ khác biệt lãnh đạo, thì chỉ có một vùng duy nhứt đại diện cho quốc gia ở
các định chế quốc tế. Trường hợp hai miền Nam, Bắc Việt Nam trước 1975, Quốc
Gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa được các định chế quốc tế chấp
thuận là đại diện chính thức và duy nhứt cho quốc gia Việt Nam.
Trường
hợp quốc gia bị chia cắt (có hai vùng lãnh thổ với hai chính phủ riêng biệt),
một nước công nhận chính phủ này thì đương nhiên không công nhận chính phủ kia
(và ngược lại). Giả sử, Hoa Kỳ (và nhiều nước khác) trước kia công nhận chính
phủ họ Tưởng ở Đài Loan và không công nhận chính phủ ở Bắc Kinh, hay công nhận
VNCH và không công nhận VNDCCH.
Đối
với LHQ, mỗi quốc gia chỉ có một ghế đại diện. Trường hợp quốc gia chia cắt,
đại diện của quốc gia là phía được số phiếu bầu nhiều nhất tại đại hội đồng
LHQ, ngoại trừ trường hợp bị các thành viên thường trực trong hội đồng an ninh
« phủ quyết - veto ». Chính phủ Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan giữ ghế
đại diện cho Trung Hoa ở LHQ đến năm 1972 thì bị đại hội đồng truất phế, thay
vào đó là chính phủ ở Bắc Kinh, do việc HK không bỏ phiếu phủ quyết. Hai miền
Nam và Bắc VN không bên nào có được ghế ở LHQ, do vấn đề chính trị ý thức hệ,
mỗi khối ủng hộ một bên. Năm 1957 Liên Xô đề nghị hai miền Nam, Bắc VN đều được
chấp nhận vào LHQ, nhưng việc này không được các bên chấp thuận (vì các bên đều
giữ nguyên tắc quốc gia duy nhất).
Trường
hợp quốc gia có thay đổi chính thể do biến động chính trị (do đảo chánh, cách
mạng …), hay một quốc gia mới được khai sinh (do thống nhất hai quốc gia hay
hai vùng lãnh thổ, quốc gia ly khai…) việc kế thừa quốc gia sẽ đặt ra nhằm tái
xác định, hay phủ định, hiệu lực các kết ước, hay các tuyên bố đơn phương của
nhà nước (hay quốc gia) tiền nhiệm đã thể hiện đối với các nước khác.
Một
nội các (chính phủ hay nhà nước) có thể được một chính phủ của một nước khác
công nhận (hay không công nhận) trong trường hợp nước đó có biến động ảnh hưởng
nội tình chính trị (nội các thay đổi do đảo chánh, thay đổi chính thể do cách
mạng v.v…).
2. Các quốc gia Việt Nam – sự liên tục và kế thừa
2.1
Quốc Gia Việt Nam (12-3-1945 – 25-8-1945) của Quốc vương Bảo Đại :
Ngày
10 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chánh Pháp, chiếm Đông Dương. Nhân dịp này ông
Yokoyama, xưng là đại sứ Nhật, tiếp xúc với ông Bảo Đại, đề nghị trả lại độc
lập cho VN. Ngày 12 tháng 3 năm 1945 Bảo Đại tuyên bố độc lập, nội dung đại
khái gồm các điểm : « bãi bỏ hiệp ước bảo hộ đã ký với Pháp »,
« thu hồi chủ quyền độc lập quốc gia » và « theo đường hướng của
bản Tuyên ngôn chung của khối Đại Đông Á »… Ngày 17-4-1945, theo ý muốn
của Bảo Đại, cụ Trần Trọng Kim thành lập chính phủ.
Dĩ
nhiên, thái độ của Nhật không phải là tốt đẹp gì. Nếu họ có hảo ý thì họ đã trả
độc lập cho VN từ lúc mới vào VN tháng 8 năm 1940, chứ không phải đợi đến lúc
sắp sụp đổ mới làm. Hành động trễ tràng này cho thấy đây là cố gắng cuối cùng
của Nhật trước khi thất bại trước quân Đồng Minh. Họ nghĩ rằng, khi lôi kéo
được các quốc gia này vào khối Đại Đông Á, Nhật hy vọng xây dựng lại thế lực,
nhờ vào lực lượng của các nước mới được độc lập, nhằm củng cố lại quân đội đang
trên đà tan rã. Nhưng chỉ vài tháng sau, ngày 16 tháng 8, Nhật Hoàng đọc lệnh
cho binh sĩ buông súng đầu hàng.
Hậu
quả, ngày 25 tháng 8 Bảo Đại giao ấn, kiếm cho Trần Huy Liệu, đại diện Ủy ban
giải phóng, tuyên bố thoái vị. Quốc gia gọi là « Quốc gia Việt Nam »
vì vậy cũng kết thúc.
Về tình trạng pháp
lý, Quốc gia Việt Nam chỉ hiện hữu vỏn vẹn 5 tháng, từ 12-3-1945 đến 16-8-1945.
Đây có phải là một thực thể « quốc gia » đúng nghĩa theo Công pháp
quốc tế hay không ?
Khi
Nhật đặt chân đến VN trong Thế chiến II, tháng 8 năm 1940, có ký kết với Pháp
vẫn để cho Pháp có chủ quyền tại Đông Dương, ngoại trừ phương diện quân sự. Kết
ước này không được tôn trọng. Tháng 3 năm 1945 Nhật truất quyền của Pháp ở VN
và nắm toàn quyền lãnh đạo. VN được đặt trong khối « Đại Đông Á » của
Nhật. Việc Nhật trả độc
lập cho VN và sau đó Tuyên bố độc lập của Bảo Đại có giá trị trước công pháp
quốc tế. Vì ở thời điểm đó Nhật đã giành chủ quyền VN từ tay Pháp (và trả lại
cho Bảo Đại). Chính phủ Trần Trọng Kim là một chính phủ « xứng
đáng » so với tiêu chí của Công pháp quốc tế hiện nay. Chỉ
trong một thời gian ngắn chính phủ này đã tổ chức hành chánh, thiết lập an ninh
trật tự trong xã hội đồng thời thực hiện các công tác cứu trợ cần thiết cho
người dân vì VN đang trong thời chiến tranh, chịu sự dội bom, đánh phá của Đồng
minh, trong tình trạng thiếu thốn về mọi mặt.
Tuy
nhiên, vài tháng sau Nhật đầu hàng. Độc lập và chủ quyền của Việt Nam mà Bảo
Đại tuyên bố chưa kịp nước nào công nhận.
(Bảo
Đại thoái vị, nhượng quyền cho « Chính phủ cách mạng » của Hồ Chí
Minh, có thể do ám ảnh hành động của thủ tướng Thái Plaek Phibulsongkhram. Ông
này từ chức, nhường quyền lại cho ông Pridi Phanomyong, nguyên là một giáo sư
Luật, là người có khuynh hướng thân Mỹ, chống lại việc hợp tác với Nhật, do lo
ngại việc Thái sẽ bị đặt dưới sự bảo hộ của Đồng minh vì nước này đứng về phía
Nhật trong thời chiến tranh. Nhưng việc thoái vị này có thể do uy hiếp của nhóm
Hồ Chí Minh).
Hành động thoái vị của Bảo Đại cho thấy
là sai lầm.
Lý ra chính phủ Trần Trọng Kim trụ được cho đến khi Đồng Minh gởi quân vào tước
vũ khí của Nhật, vì trên nguyên tắc, lực lượng quân đội Nhật có bổn phận giữ an
ninh trật tự trong xã hội cho đến khi quân Đồng minh vào giải giới. Số phận của
VN, cũng như các nước bị Nhật chiếm trong chiến tranh, đã được các nước Đồng
minh định đoạt trước ở hội nghị Potsdam 1945.
Tranh
chấp đảng phái ở VN sau đó là tranh chấp để giành làm đại diện cho VN để đối
thoại với Đồng minh.
2.2
Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa của Chính phủ lâm thời (Mặt trận Việt Minh, từ
2-9-1945 đến tháng 12 năm 1946) :
Khi
Nhật đầu hàng Đồng Minh 16-8-1945, ở VN đã có một khoảng trống chính trị vì
chính phủ Trần Trọng Kim không có thực lực. Việc này có thể do hệ quả của việc
không dám dựa vào quân đội Nhật (vẫn còn trách nhiệm giữ an ninh trật tự tại VN
cho đến khi Đồng minh vào giải giới), vì sợ kết vào tội làm « bù
nhìn » cho Nhật. Trong khi các lực lượng « lưu vong » như Việt
Minh của Hồ Chí Minh, Việt Nam Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh, Việt Nam Cách
mạng Đồng minh hội của Nguyễn Hải Thần, Đại Việt của Nguyễn Tường Tam… đều nhôn
nhao về nước tìm cách nắm chính quyền. Trong đó ông Hồ Chí Minh tỏ ra nắm vững
tình hình quốc tế và cao tay về chính trị hơn cả.
Ngày
19 tháng 8 năm 1945 Mặt trận Việt Minh làm « cách mạng », một chính
phủ « lâm thời » được Hồ Chí Minh thành lập tại Hà Nội. Việc này chỉ
xảy ra vài ngày trước khi quân Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch vào Bắc Kỳ, (theo
qui định của các nước Đồng minh ở Hội nghị Potsdam). Quân Tưởng gồm hai đạo,
vào VN từ hai ngả : từ Quảng Tây vào Lạng Sơn do Tiêu Văn cầm đầu và từ
Vân Nam vào Lào Cai do Lư Hán cầm đầu, tổng cộng khoảng 180.000 quân. Hai đạo
quân này đi tới đâu thì tước khí giới của Việt Minh tới đó, rồi giao chính
quyền quyền cho quân của các đảng phái khác (VNQDD, DV, VNCMDMH) thân Tàu. Hồ
Chí Minh lo bị mất quyền, vì thế, từ Hà Nội, ông hô hào tổ chức « tuần lễ
vàng », nhằm quyên góp vàng bạc trong dân để có phương tiện đút lót cho
các tướng Tiêu Văn và Lư Hán để giữ quyền hành. Nhờ hành vi « lo
lót » này, các vị tướng Tàu ngả về ủng hộ Hồ Chí Minh, làm áp lực lên các
đảng phái khác (vốn rất chia rẽ, một phe theo Tiêu Văn, một phe theo Lư Hán),
ép thành lập « Chính
phủ Liên hiệp Lâm thời » ngày 25 tháng 12 năm 1945. Chính phủ này
gồm có đại diện của các phe phái tại VN. Quốc hội cũng được tổ chức qua cuộc
bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946. Ngày 2 tháng 3, Quốc hội nhóm họp, tuyên bố
« Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến » thành hình, do Hồ Chí Minh làm
chủ tịch và Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch.
Hồ
Chí Minh cũng nắm bắt được tin Pháp đang vận động với Tưởng Giới Thạch, trao
đổi quyền lợi giữa Pháp và Trung Hoa, để quân Pháp vào thay thế quân Hoa ở miền
Bắc (thực ra ở bắc vĩ tuyến 16), theo như qui định của Đồng minh tại hội nghị
Potsdam. Trong khi đó, Anh cũng trao quyền cho Pháp ở miền Nam (nam vĩ tuyến
16). Ông Hồ « đón gió » chính trị trước việc này, tìm cách ký kết với
Pháp một kết ước, mục đích dĩ nhiên là để được xem là đại diện chính thức của
VN. Ngày 28-2-1946 Pháp và
Trung Hoa ký kết ước Trùng Khánh thì ngày 6 tháng 3 ông Hồ cũng ký với Pháp một
hiệp ước gọi là « hiệp ước sơ bộ ». Theo đó Pháp công nhận VN là một
nước « tự do » nằm trong Liên bang Đông dương và Liên hiệp Pháp.
Quốc
gia Việt Nam từ thời điểm 2-9-1945 đến khi « hiệp ước sơ bộ » được ký
có phải là một quốc gia thực sự ?
Sau
khi được Bảo Đại giao ấn và kiếm, biểu tượng uy quyền của vua đối với thần dân
trên lãnh thổ Đại Nam, lý ra « chính phủ lâm thời » có tính
chính đáng để khai sinh một nước Việt Nam độc lập. Tuy vậy việc này không có
giá trị đối với công pháp quốc tế, một mặt do chưa ổn định nội an thì quân Tàu
đã kéo qua, mặt khác do hệ quả của « hiệp ước sơ bộ ».
Khi
ký hiệp ước sơ bộ, chính phủ của ông Hồ được Pháp công nhận tư cách đại diện
một « quốc gia », giới hạn ở Bắc kỳ (đúng ra phía bắc vĩ tuyến 16).
Quốc gia đó là quốc gia « Việt Nam tự do – Vietnam libre », đứng
trong « Liên bang Đông dương » và khối « Liên hiệp Pháp ».
Vấn đề phải hiểu thế nào là nước
« Việt Nam tự do » đứng trong « Liên bang Đông
dương » ?
Từ
hòa ước Patenôtre 1884 đến tháng 3 năm 1945, toàn Đông Dương (gồm Việt Nam, Lào
và Cao Miên) thuộc Pháp. Để dễ bề cai trị, Pháp đặt nền hành chánh thuộc địa
tại Việt Nam theo lối « chia để trị ». VN bị phân chia thành ba miền
(còn gọi là ba kỳ) riêng biệt. Ba Kỳ cùng Lào, Kampuchia và Quảng Châu Loan
(nhượng địa của TQ) được Pháp đặt trong « Liên bang Đông dương – Union
Indochinoise », còn gọi là Đông Dương thuộc Pháp hay Đông Pháp. Liên Bang Đông Dương ra đời ngày 17-10-1887,
do một Toàn quyền (sau này là Cao ủy) được Pháp bổ nhiệm lãnh đạo. Các
« xứ » (tiểu bang) hay các « kỳ » của VN trong Liên bang có
tình trạng pháp lý khác nhau. Nam kỳ có qui chế thuộc địa, dân chúng ở đây có
chế độ « thuộc dân – sujets français », trực thuộc Bộ Thuộc địa Pháp,
do một Tổng đốc (gouverneur) lãnh đạo. Trong khi Trung kỳ và Bắc kỳ (cũng như
Lào và Kampuchia) có tình trạng pháp lý là các xứ « bảo hộ », trực
thuộc Bộ Ngoại Giao. Dân chúng ở các xứ này có qui chế «dân bảo hộ Pháp
- protégés français », là qui chế thấp nhứt (1/ công dân Pháp -
citoyens français, 2/ thuộc dân Pháp - sujets français và 3/ dân bảo hộ Pháp -
protégés français).
Hiệp ước sơ bộ không hề nói một nước
Việt Nam độc lập mà chỉ nói một nước « Việt Nam tự do » thuộc
« Liên bang Đông dương » và khối « Liên hiệp Pháp ». Tức
ông Hồ chấp nhận « quốc gia » Việt Nam, thực ra là « tiểu
bang » hay « xứ », do chính phủ ông lãnh đạo, nằm trong Liên
bang Đông Dương, có qui chế pháp lý tương đương với xứ Bắc Kỳ, mà quyền hành
của ông còn dưới quyền của Thống sứ Pháp.
Các
đảng phái quốc gia lên án ông Hồ việc này là rước Pháp vào lại VN. Nhưng thực
ra, có hay không có « hiệp ước sơ bộ » thì Pháp cũng vào lại VN. Cũng
như có hay không có các chính phủ của Bảo Đại hay của ông Hồ thì quân Trung Hoa
cũng vào Bắc Kỳ. Việc này là do qui định của phe chiến thắng, tức các nước Đồng
minh. Khi Pháp và TH ký kết ước trao đổi quyền lợi, Pháp trả các nhượng địa
cùng các cơ sở kinh tế của Pháp tại đất TH cho họ Tưởng thì phe này cũng trả
lại VN cho Pháp. Chính trị gọi là « đón gió » của ông Hồ, vì ông hiểu
biết tình hình quốc tế, biết được định đoạt của Đồng minh về số phận các quốc
gia do Nhật chiếm trước chiến tranh, vì thế xông xáo ký kết ước với Pháp. Nhưng
việc này cũng kết liễu tính chính thống của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa,
đồng thời hành động này làm cho các đảng viên trong đảng CSVN nghi ngại lập
trường của ông Hồ. Vi việc này mà sau này ông Hồ trở nên rất sắt máu, đúng tiêu
chuẩn của một cán bộ quốc tế vô sản, để chứng minh lập trường của mình. Nhưng
dầu vậy ông Hồ cũng không được phía cộng sản Nga tin tưởng. Họ nghi ngờ ông Hồ
là « cơ hội chủ nghĩa » cho đến khi ông này qua đời năm 1969.
Như
thế nước « Việt Nam Dân chủ Cộng hòa » do ông Hồ lãnh đạo không hề là
một quốc gia thực sự mà chỉ là một « tiểu bang » trong Liên bang Đông
Dương.
Sau
khi bị chỉ trích, ông Hồ cố gắng thay đổi thực tế này qua các hội nghị tại Đà
Lạt và Fontainebleau, nhưng đều thất bại. Chính phủ của ông Hồ rút khỏi Hà Nội
và bước vào cuộc kháng chiến, bắt đầu từ tháng 12 năm 1946. Việc này, ông Bảo Đại phê rằng : Sau
thất vọng ở Fontainebleau, (Việt Minh) chỉ còn giữ được uy tín bằng cách đưa cả
nước vào biển máu.
2.3
Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam (27-5-1948) và Việt Nam Cộng
Hòa (26-10-1955 đến 30-4-1975) :
Thế
chiến Thứ II chấm dứt, việc này cũng kết liễu các chế độ « thực dân »
ở các xứ « thuộc địa » của các đại cường cũ (Anh, Pháp…). Khuynh
hướng của Hoa Kỳ, đại cường mới lên, chủ trương bãi bỏ tất cả các chế độ thực
dân, do đó khuyến cáo các cường quốc phải trả lại độc lập cho các thuộc địa của
mình. Các xứ như Phi, Miến Điện, Nam Dương, Ấn Độ và Pakistan… lần lượt lấy lại
độc lập mà không tốn một giọt máu.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, một nước Pháp đã kiệt quệ nhưng vẫn
muốn giữ quyền lợi và ảnh hưởng của mình. Phía Hoa Kỳ đặt điều kiện cho Pháp,
để được sự trợ giúp, phải để cho dân VN thành lập một chính phủ đại diện (nhằm
đi đến độc lập và thống nhứt đất nước).
Nội
tình VN hỗn loạn, các đảng phái quốc gia không có thực lực lại xâu xé, tranh
chấp lẫn nhau. Bên có thực lực là phe của ông Hồ, nhưng là lực lượng của cộng
sản. Phe này tìm cách loại trừ phe kia để độc chiếm sân khấu chính trị. Trong
khi nội tình nước Pháp cũng không khá hơn. Chính trị Pháp về Đông Dương chia
làm hai khuynh hướng, phe tả thúc hối chính phủ phải thuơng lượng với Hồ Chí
Minh. Phe hữu thì đòi phải thuơng lượng với Bảo Đại.
Cuối cùng « lá bài » Bảo Đại được Pháp chọn làm đối
tượng đối thoại để thực hiện chính sách mới của họ về thuộc địa nhằm thỏa mãn
các điều kiện của Hoa Kỳ.
(Thực
ra đây là một lựa chọn theo lối « không chó bắt mèo ăn c. ». Vì ông
này không cộng sản và có được tính « chính thống » trước người dân
VN. Ông Bảo Đại là một type người ăn chơi đàng điếm, cả cuộc đời chỉ la cà trà
đình, tửu quán, sòng bài… không thể là một « chính khách » của một
nước thuộc địa đang gay go giành lại độc lập (và thống nhứt đất nước) trong một
không gian vô cùng hỗn loạn vì tranh chấp về quyền lợi và chính trị (ý thức hệ)
giữa các cường quốc đang nắm vận mạng của cả thế giới. Khi được nắm quyền (Quốc
trưởng) ông này chỉ ở bên Pháp, lo ăn chơi chứ không ở lại trong nước để chia
sẻ ngọt bùi với quần thần và dân chúng. Ông bị Ngô Đình Diệm hạ bệ là hợp lý. So với ông Hồ Chí Minh thì Bảo
Đại thua xa về trí tuệ và tư cách. Nhưng ông Hồ là người vô sản chân chính, đặt
quyền lợi quốc tế cộng sản lên trên lợi ích của dân tộc.)
Ngày
27-5-1948 Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam được thành lập do Nguyễn
Văn Xuân làm thủ tướng, Bảo Đại lên làm « Hoàng Đế, Quốc trưởng ».
Ngày 5 tháng 6 năm 1948, chính phủ này ký bản « Tuyên bố chung » với
Cao ủy Bollaert ở Hạ Long, theo đó Pháp cam kết : « Pháp long trọng công nhận nền độc
lập của Việt Nam, được tự do thực hiện nền thống nhứt của mình. Việt Nam tuyên
bố sát nhập vào Liên Hiệp Pháp dưới danh nghĩa một quốc gia liên kết với nước
Pháp. »
Nhưng
« bản tuyên bố » này bị các thế lực thân thực dân ở Nam kỳ chống đối.
Cùng lúc ở Paris, chính giới Pháp phản đối việc này, cho rằng ông Bollaert
không có tư cách để nhượng bộ như vậy. Họ lý luận rằng, trong vấn đề Nam kỳ, vì
đây là « nhượng địa » của VN cho Pháp. Do đó mọi quyết định liên quan
đến Nam kỳ phải do quốc hội biểu quyết.
Nhưng
thời điểm này nội tình chính trị nước Pháp không ổn định, nội các thường xuyên
thay đổi. Đất nước kiệt quệ do chiến tranh, rất cần các sự giúp đỡ của HK. Nội
các mới công bố chính sách Đông Dương vào ngày 19-8-1948, công nhận nội dung
tuyên bố Hạ Long. Đến 8 tháng 3 năm 1949, tuyên bố Hạ Long được xác định cụ thể
qua lá thư của Tổng thống Vincent Auriol gởi cho Bảo Đại, còn gọi là kết ước
Elysée.
Nội
dung có nhiều điều cần bàn cãi, nhưng điểm chính là Pháp phải công nhận VN
« độc lập » và « thống nhứt ». Đây là một thắng lợi
lớn của Việt Nam, là tiền đề để xây dựng một nước Việt Nam độc lập và tự chủ.
Cho dầu về một số mặt còn lệ thuộc vào Pháp, nhưng không tốn giọt máu nào, thì
đó cũng là cái giá rất rẻ để chấp nhận.
Đối với các định chế
quốc tế, Quốc gia Việt Nam của của Bảo Đại đã được chấp thuận đại diện cho nước
Việt Nam duy nhứt, gia nhập vào các tổ chức quốc tế như sau :
-
Tổ chức Y tế Quốc Tế (l'Organisation mondiale de la Santé - O.M.S.) ngày 17
tháng năm năm 1950.
-
Tổ chức Lao động Quốc tế (l'Organisation internationale du Travail - O.I.T.),
ngày 21 tháng sáu năm 1950.
-
Tổ chức của Liên Hiệp Quốc về Lương thực và Nông nghiệp (l'Organisation des
Nations Unies pour l'alimentation et l'agriculture - F.A.O.), ngày 11
thasng 11 năm 1950.
-
Tổ chức của Liên Hiệp Quốc về Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (l'Organisation des
Nations Unies pour l'éducation, la science et la culture - U.N.E.S.C.O.),
ngày 21 tháng 6 năm 1951.
-
Liên hiệp Quốc tế về Viễn Thông (l'Union internationale des Télécommunications
- U.I.T), ngày 24 tháng 9 năm 1951.
-
Liên hiệp Bưu chính Thế giới (l'Union postale universelle - U.P.V.), ngày 20
tháng 10 năm 1951.
Năm
1951, ông Trần Văn Hữu, nguyên thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ ngoại giao, đại diện
Việt Nam đi dự hội nghị San Francisco, ký kết hiệp ước Hòa Bình với Nhật. Nhân dịp này ông đã tuyên bố tại hội nghị về chủ quyền
lâu đời của VN tại hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa đã bị Nhật chiếm đóng trái phép trong thời kỳ chiến tranh, do
đó ông thay mặt quốc gia Việt Nam tuyên bố quyết định thâu hồi hai vùng lãnh
thổ này về lại quốc gia Việt Nam. Tuyên bố của ông Trần Văn Hữu không gặp phản
đối của nước nào nào tại hội nghị.
Quốc
gia Việt Nam với Quốc trưởng Bảo Đại cũng được nhiều nước trên thế giới công
nhận, như Hoa Kỳ, tóa thánh Vatican cũng như nhiều nước khác trong thế giới tự
do (đến năm 1954 có 35 nước công nhận).
Tháng 6 năm 1954 Ông
Diệm về làm thủ tướng.
Một tháng sau đất nước bị chia đôi tại vĩ tuyến 17 theo Hiệp định Genève. Ngày 20-10-1955 ông Diệm trưng cầu dân ý
truất phế ông Bảo Đại.
Ngày 26 tháng 10 năm 1955 đổi tên nước và thành lập chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa.
Nội
dung Hiệp định Genève ký kết giữa Pháp và VNDCCH, xác định nước Việt Nam là duy
nhứt, việc phân chia hai miền chỉ là tạm thời. Các định chế quốc tế tôn trọng
điều này.
Việc
phân chia đất nước, chính phủ Bảo Đại (và Hoa Kỳ) chống đối. Chính phủ Quốc gia
Việt Nam (cũng như hai nền cộng hòa của nước VNCH sau này), tôn trọng tính liên
tục của quốc gia, cũng không công nhận nhà nước VNDCCH và chủ trương một quốc
gia Việt Nam (thống nhứt ba kỳ) và duy nhứt.
Sau
1954, Chính phủ VNDCCH được thành lập ở miền bắc nhưng không đại diện cho quốc
gia Việt Nam ở các định chế quốc tế. VNCH, kế thừa di sản của Quốc Gia việt
Nam, tiếp tục đại diện cho quốc gia Việt Nam tại các định chế quốc tế đã ghi ở
trên. Tức các định chế
quốc tế công nhận tính liên tục quốc gia Việt Nam, từ Quốc Gia Việt Nam sang
Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 18 tháng 11 năm 1954, QGVN được chấp
nhận cho gia nhập vào Tổ chức Hàng không Dân sự Quốc tế (l'Organisation
internationale pour l'aviation civile - O.A.C.L).
Ngày 1 tháng 4 năm 1955 QGVN được chấp nhận
cho gia nhập Tổ chức Khí tượng Thế giới (l'Organisation mondiale de la
météorologie – O.M.M).
Ngày 21 tháng 9 năm 1956 VNCH được gia nhập Ngân
hàng Quốc tế về Tái xây dựng và Pháp triển (la Banque internationale pour la
reconstruction et le développement - B.I.R.D.).
Sau 1963, nền Đệ nhứt cộng hòa chấm
dứt, nền Đệ nhị cộng hòa kế thừa VNCH, tiếp tục đại diện cho quốc gia VN duy
nhứt tại các định chế quốc tế cho đến khi sụp đổ ngày 30-4-1975.
Như
thế, tóm lại, từ Quốc Gia Việt Nam 1948 cho đến Việt Nam Cộng Hòa 1975, các
quốc gia này đã giữ được tính liên tục và thể hiện sự kế thừa di dản quốc gia
từ các triều đại phong kiến, nhà Nguyễn, đến thời kỳ Pháp thuộc.
Nhà nước Quốc Gia Việt Nam đã tuyên bố
giành lại HS và TS cho VN tại hội nghị San Francisco năm 1951. Nhà nước VNCH đã
đổ máu gìn giữ HS khi quân Tàu xâm lăng năm 1974.
2.4
Quốc gia « Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa » từ tháng 12 năm 1946 đến Hiệp
định Genève tháng 7 năm 1954 và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ tháng
7-1954 đến 30-4-1975
Từ
tháng 12-1946 đến tháng 7 năm 1954 là khoảng thời gian gọi là « chín năm
kháng chiến », hay còn gọi là « cuộc chiến Đông dương lần thứ
nhứt ». Chính phủ của ông Hồ tuyên bố « tiêu thổ kháng chiến »,
phá bỏ thành thị, làng xã, rút vào rừng thành lập các khu kháng chiến. Chính
phủ của ông Hồ trở thành một « chính phủ kháng chiến » thực sự với ý
nghĩa của nó.
Nhưng
từ năm 1949, sau khi Tàu Mao thắng Tàu Tưởng, cuộc chiến « kháng chiến giành
độc lập » cũng trở thành cuộc chiến để cộng sản Trung Quốc bành trướng ảnh
hưởng. Từ tháng 2 năm
1951, đại hội đảng CSVN lần 2, ông Hồ tuyên bố phương pháp chiến tranh là lấy
kinh nghiệm chiến tranh cách mạng của Trung Quốc, tư tưởng là lấy tư tưởng của
Mao Trạch Đông. Cuộc « kháng chiến giành độc lập » của VN được
Mao Trạch Đông hoạch định cùng sách lược với cuộc chiến Triều Tiên, trong chiến
lược nhuộm đỏ Châu Á, « gió Đông thổi bạt gió Tây ». Trong cuộc chiến
Triều Tiên, phía Trung Cộng đã gởi hàng triệu « chí nguyện quân »
đánh giúp Bắc Hàn. Cuộc « kháng chiến thần thánh » giành độc lập
của VN đã đổi sang màu « đỏ » của phong trào vô sản quốc tế.
Bộ đội ông Hồ, từ quân trang, quân dụng, vũ khí, lương thực cho đến cán bộ chỉ
huy, tất cả đều do Trung Cộng cung cấp. Nhờ sự giúp đỡ vô biên của TQ , bộ đội
của ông Hồ, cùng với bộ đội của bác Mao, thắng được quân Pháp ở trận Điện Biên
Phủ, buộc Pháp ký Hiệp định Genève 1954.
Câu hỏi đặt ra, « quốc gia » Việt Nam DCCH
với « chính phủ kháng chiến », từ tháng 12-1946 đến tháng 7-1954, do
ông Hồ lãnh đạo có phải là một « quốc gia » đầy đủ ý nghĩa theo Công
pháp quốc tế hay không ?
Dĩ nhiên là
không !
Một chính phủ kháng chiến luôn là một chính phủ tạm thời. Về lãnh thổ thì chính
phủ này chỉ kiểm soát trên rừng rú. Chính phủ này không hề kiểm soát được các
tỉnh lớn, không đem lại an ninh và hòa bình cho dân chúng. Trong khi người dân,
ngoại trừ những người ở thôn quê hẻo lánh không có điều kiện, hầu như tất cả
đều « dinh tê ».
Cuối
cùng « kháng chiến thành công », Pháp thua Việt Minh ở trận Điện Biên
Phủ, phải ký hiệp định Genève tháng 7 năm 1954. Chính phủ VNDCCH do ông Hồ lãnh
đạo vì vậy lấy được một nửa đất nước, tính từ vĩ tuyến 17. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
hiện hữu trên thực tế (de facto) từ đây.
Nhưng
các chính sách của nhà nước VNDCCH đã tố cáo nhà nước này lệ thuộc vào một thế
lực ngoại bang. Sau
1954, các chính sách về kinh tế, cách thức tổ chức xã hội, tư tưởng chính trị,
văn hóa… thảy đều rập khuôn với các chính sách của Mao Trạch Đông đã áp dụng
trước đó tại Trung Hoa lục địa. Các phong trào « cải cách ruộng
đất », phong trào « trăm hoa đua nở », phong trào diệt
« trí phú địa hào »… áp dụng tại VN đều là ý kiến của cố vấn TQ.
Một nhà nước không vì lợi ích của dân chúng là một nhà
nước không xứng đáng. Một nhà nước lệ thuộc vào ngoại bang là một nhà nước không
được công nhận theo quốc tế công pháp.
Về
lập trường chính trị, chính phủ VNDCCH tuyên bố theo xã hội chủ nghĩa, chủ
trương một nước Việt Nam duy nhứt (theo qui định của Hiệp định Genève). Chính
phủ VNDCCH không công nhận sự hiện hữu của một chính phủ VNCH ở miền Nam. Chính
phủ VNCH bị gán cho là chính quyền ngụy, bù nhìn, do đế quốc lập nên chứ không
do nguyện vọng của người dân miền Nam. Chính phủ VNDCCH cũng tuyên bố không
công nhận bất kỳ một đại diện nào cho VN từ phía VNCH tại các định chế quốc tế.
Tức là chính phủ VNDCCH chủ trương một quốc gia VN duy nhứt mà họ là đại diện
chính thống.
Chính phủ VNDCCH, trên phương diện công pháp quốc tế, là
một chính phủ hiện hữu trên thực tế (de facto) nhưng không được công nhận (de
jure). Chính phủ này không hề đại diện nước
Việt Nam duy nhứt tại bất kỳ một tổ chức quốc tế nào. Trong khi tư cách đại
diện của VNCH tại các tổ chức này thì bị VNDCCH phủ nhận. Lãnh thổ từ vĩ tuyến
17 trở về bắc là lãnh thổ mà tổ chức chính trị của ông Hồ « chiếm »
được. Chính quyền họ có trong tay là do « cướp » được.
Những
người cộng sản VN rất tự hào về việc này. Họ tuyên bố đoạn tuyệt với quá khứ,
không chấp nhận di sản của chính quyền thực dân cũng như đả phá các nhà nước
tiền nhiệm VN thời phong kiến. Họ tuyên bố sáng lập một nước VN mới. Như thế,
vấn đề liên tục quốc gia không đặt ra. Việc kế thừa cũng không đặt ra.
Nhưng khó khăn chỉ đến khi đối diện với
thực tế. Sau 1975, vấn đề chủ quyền HS và TS sẽ giải quyết thế nào, khi chính
quyền này đã công nhận nhiều lần trong quá khứ chủ quyền HS và TS thuộc
TQ ?
Vấn
đề về liên tục quốc gia vì thế phải được quan niệm lại, đồng thời với việc kế
thừa. Các việc này phải được thực hiện như thế nào để quốc gia VN không mất
lãnh thổ (và hải phận) ở hai quần đảo HS và TS ?
2.5
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời
20-12-1960 đến 2-7-1976 :
Trong
vấn đề « thống nhứt » đất nước, VNDCCH chủ trương « giải phóng
miền nam », vì đồng bào miền nam đang quằn quại dưới ánh cai trị bạo tàn
của Mỹ-Ngụy. Vấn đề « giải phóng » sẽ được thực hiện bằng bạo lực,
bằng cách phát động cuộc chiến tranh cách mạng, hô hào dân miền Nam nổi dậy lật
đổ chế độ.
Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam được khai sinh để phục vụ cho chủ trương đó. MT khai
sinh ngày 20-12-1960 theo nghị quyết của của Đại hội đảng toàn quốc lần thứ ba
của đảng CSVN (lúc đó là đảng Lao Động), được đặt dưới sự lãnh đạo của bộ Chính
trị đảng CSVN và Trung ương cục miền Nam.
Mục
tiêu của MT là : « đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đảng phái, đoàn
thể, tôn giáo và nhân sĩ yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị để đấu
tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm, tay sai
của Mỹ, để thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập tiến tới hòa bình
thống nhứt tổ quốc. »
Cuộc
tổng tấn công tết Mậu Thân 1968, thực hiện theo một nghị quyết khác của đảng
CSVN, là một thành công chính trị lớn lao cho đảng CSVN. Con cờ mà họ lập ra,
MTGPMN, từ nay được quốc tế biết đến. Chính phủ Cách mạng Lâm thời được thành
lập ngày 8-6-1969. Dĩ nhiên VNDCCH cùng các nước trong khối cộng sản lập tức
công nhận thực thể chính trị này. Việc này đặt lại tính chính thống của chính
phủ VNCH trước các định chế quốc tế, làm yếu đi tư thế đại diện một nước Việt
Nam duy nhứt. Nhưng
cho đến khi sụp đổ, VNCH vẫn là đại diện duy nhứt cho quốc gia Việt Nam tại các
tổ chức quốc tế.
Cùng
lúc chính trị của Mỹ về vấn đề VN bước vào khúc quanh quyết định. Mỹ muốn
« Việt Nam hóa chiến tranh », vì thấy không cần thiết để hiện diện ở
VN nữa, sau khi bắt tay được với Mao Trạch Đông qua việc ký kết ước Thượng Hải.
Chính phủ Cách mạng Lâm
thời được Mỹ nâng lên ngang tầm với VNCH, để bốn bên Mỹ, CS miền Bắc, VNCH và
CPCMLT ký kết hiệp định Paris 1972. HK bắt đầu rút quân khỏi miền Nam đồng thời
cúp viện trợ quân sự cho VNCH.
Việc đến phải đến, 30-4-1975 VNCH sụp
đổ. Quốc gia VNCH đổi tên thành Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
3. Vấn đề kế thừa giữa VNCH và CHMNVN qua khía cạnh đại diện các
định chế quốc tế - Vai trò của VNDCCH.
Bộ
trưởng bộ Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời là bà Nguyễn Thị Bình.
Sau khi VNCH sụp đổ, bà Bình đã có những động thái hướng đến các tổ chức quốc
tế nhằm kế thừa danh nghĩa của VNCH đại diện cho quốc gia Việt Nam. Ngày
7-5-1975, một điện tín từ Bộ ngoại giao của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã gởi
đến O.M.S, cùng lúc với các định chế quốc tế khác, nội dung tóm lược như
sau :
Chính
phủ Cộng hòa Miền Nam VN thông báo đã kiểm soát hoàn toàn lãnh thổ Việt Nam.
Chế độ cũ ở Sài Gòn đã sụp đổ. Chính phủ Cách Mạng lâm thời là người duy nhứt
có thẩm quyền, thực sự đại diện dân chúng miền Nam, có tính chính thống để đại
diện miền Nam Việt Nam tại O.M.S cũng như các định chế quốc tế khác.
Việc
« kế thừa » VNCH của CPCMLT tại các định chế quốc tế không gặp khó
khăn, chỉ đơn giản là việc « đổi tên nước », tại UNESCO vào tháng 7
-1975, U.I.T vào tháng 2 năm 1976.
Điều
cần ghi nhận là động thái của VNDCCH qua việc xin gia nhập O.M.S như là
« một thành viên chính thức » vào ngày 10 tháng 4 năm 1975. Việc này
được đại hội O.M.S chấp nhận ngày 7-5. Lập trường một quốc gia Việt Nam duy nhứt đã bị phá
bỏ. Tức là có hai nước VN tại O.M.S.
Điều
cần ghi nhận khác, tại đại hội O.M.S năm 1976, hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN
chỉ có một phái đoàn đại diện. Việc này vi phạm điều lệ LHQ, vì một người không
thể đại diện cho hai quốc gia. Tuy vậy, việc này cũng được thông qua, với điều
kiện, khi phái đoàn phát biểu cho nước nào thì phải để bảng ghi tên nước đó
phía trước.
Như thế, trong chừng mực, VNDCCH chấp
nhận có hai quốc gia Việt Nam : VNDCCH và CHMNVN, sau ngày 30-4-1975.
Việc
thống nhứt đất nước 2-7-1976 như thế là thống nhứt giữa hai quốc gia. Vấn đề kế
thừa về lãnh thổ do đó mang một sắc thái chính trị khác.
Sau
30-4-1975, không thấy chính phủ CMLT tuyên bố lời nào về chủ quyền của HS và
TS. Cuộc chiến đã được gọi là cuộc chiến « giải phóng », tức cuộc
chiến đánh đổ (phủ nhận) chính phủ tiền nhiệm, nhằm tháo gỡ cùm gông kìm kẹp
dân chúng. Do đó không có vấn đề « kế thừa » lãnh thổ, mà chỉ có vấn
đề « giải phóng », tức chiếm lại đất đai và giành lại dân chúng. Một
số đảo ở TS đã được thể hiện như thế (de facto). Danh nghĩa chủ quyền của VN
tại HS và TS do đó vẫn chưa được thụ đắc (de jure).
Đến nay, các mặt nạ lần lượt rơi xuống. Mọi người đều biết MTGPMN là con đẻ của đảng CSVN, chứ
không hề do nhân dân miền Nam thành lập để « vùng lên » chống áp bức. Các cán bộ lãnh đạo
MT đều là đảng viên của đảng CSVN. Những lãnh đạo CSVN hiện nay, những người
trong MTGPMN cũ, đều là thành viên TU của đảng CSVN. MTGPMN với đảng CSVN chỉ là một. Thực thể CPLTCHMN không hề là nguyện vọng của
người dân miền Nam (VNCH). Hành vi của chính phủ này không phản ảnh ý muốn của
người dân tại đây.
Chính phủ VNCDCH và
CPCMLT tuy hai mà một. Ý kiến của VNDCCH về HS và TS trong chừng mực cũng là ý
kiến của CHMNVN. Mà ý kiến đó là công nhận chủ
quyền của TQ tại HS và TS. Ý kiến này không được người dân VN nào,
Nam cũng như Bắc, chấp nhận. HS và TS là các lãnh thổ của quốc gia VN, do tổ
tiên người VN khám phá, khai thác và quản lý trên thực tế liên tục từ nhiều thế
kỷ. Chấp nhận HS và TS
thuộc chủ quyền của TQ là nhà nước VNDCCH đã phản bội tiền nhân, đi ngược lại
quyền lợi của dân tộc Việt Nam.
Sự thật lịch sử là như thế, vấn đề đặt ra, nước CHXHCNVN thống
nhứt ngày hôm nay sẽ kế thừa chủ quyền ở hai quần đảo HS và TS như thế
nào ? Nước này sẽ đứng trên lập trường của nước nào, VNDCCH, CHMNVN hay
VNCH để khẳng định chủ quyền ở HS và TS ? Đây không phải là một lựa chọn
về « chính trị » mà là một quyết định đứng vào lập trường nào để có
thể bảo vệ một cách hữu hiệu quyền lợi của dân tộc.
Vì
vậy, việc phân tích các tuyên bố đơn phương và các hành vi mặc nhiên chấp thuận
chủ quyền của VN ở HS và TS của nhà nước VNDCCH là cần thiết. Người viết sẽ
tuần tự sau đây phân tích về hiệu lực pháp lý của các tuyên bố đơn phương, các
hành vi mặc nhiên chấp thuận qua các bản án mẫu của Tòa án Công lý Quốc tế
(C.I.J), qua các trường hợp tranh chấp lãnh thổ đã xảy ra trong lịch sử thế
giới, ở một số thí dụ để so sánh với trường hợp VN.
Các thí dụ :
1/
nội dung và hiệu lực pháp lý của lá thư của Bộ ngoại giao Colombie gởi chính
phủ Vénézuela về chủ quyền quần đảo Los Monjes.
2/
Nội dung và hiệu lực pháp lý của công hàm chính phủ lâm thời Johor về chủ quyền
đảo Pedra Branca trong tranh chấp chủ quyền đảo này giữa Mã Lai và Tân Gia Ba.
3/
nội dung và hiệu lực pháp lý tuyên bố « Ihlen » của bộ trưởng Bộ
ngoại giao Na Uy về chủ quyền Groenland trong tranh chấp lãnh thổ này giữa Đan
Mạch và Na Uy.
4/
Nội dung tuyên bố của các viên chức Pháp về chủ quyền các đảo
« Anglo-Normand » trong quá khứ và tác động của chúng lên quyết định
của tòa án trong tranh chấp Anh-Pháp về chủ quyền các đảo này.
5/
Về thái độ của chính phủ Thái Lan về tấm bản đồ phân định biên giới 1907 và hệ
quả của thái độ này lên phán quyết của tòa án trong tranh chấp Thái-Miên về chủ
quyền ngôi đền Preah Vihear v.v…
Khi
đã có một ý thức về hiệu quả pháp lý của các tuyên bố đơn phương (công hàm 1958
do Phạm Văn Đồng kys) hay các thái độ mặc nhiên công nhận (1965, 1974) của nhà
nước VNDCCH về chủ quyền của TQ tại HS và TS, ta sẽ phải đi tìm một phương pháp
thích ứng để hóa giải kịp thời hiệu lực của các tuyên bố hay thái độ này.
Phương
pháp đó là phương pháp nào ? Người viết cũng sẽ lần lượt trình bày kế tiếp
sau đây ý kiến của mình về việc này.
Ghi chú : Một số dữ kiện ở
phần 2.3 và 3 dẫn từ bài « La représentation du VietNam dans les
institutions spécialisées » của bà Joële Nguyên Duy-Tân. In: Annuaire
français de droit international, volume 22, 1976. pp. 405-419.
(CÒN TIẾP)
No comments:
Post a Comment