Ngô Nhân Dụng
Friday,
July 27, 2012 6:09:46 PM
Câu tự đề trên đây là ý kiến của một vị độc giả sau khi đọc bài
trước trên mục này: “Ai cũng biết Việt Nam đang bị Trung Quốc làm nhục, nhưng
chống Trung Quốc bằng cách nào?”
Ðó
cũng là ý kiến của Thái Úy Trần Nhật Hiệu, vào thế kỷ 13.
Năm
1257 Hốt Tất Liệt, sau khi xóa tan nước Ðại Lý, sai quân tấn công nước ta vì
vua nhà Trần không chịu qua Vân Nam khấu đầu quy phục. Ðạo quân Mông Cổ phá đổ
hàng phòng thủ đầu tiên do Trần Quốc Tuấn chỉ huy; rồi đánh bại đạo quân chính
do Trần Thái Tông trực tiếp lãnh đạo; tiến tới chiếm thành Thăng Long, “cướp
phá, giết tất cả nam phụ lão ấu ở trong thành,” như Trần Trọng Kim ghi trong Việt
Nam Sử Lược. Triều đình chạy về Hưng Yên, Thái Tông hỏi ý kiến mọi người. Thái
Úy Trần Nhật Hiệu cầm sào viết xuống nước hai chữ: Nhập Tống (xin vào nước
Tống). Lúc đó Tống còn là tên gọi cả nước Trung Hoa; mặc dù vua quan nhà Tống
chỉ còn làm chủ một mẩu đất ở vùng Quảng Ðông, hai năm sau mới bị quân Mông Cổ
tiêu diệt. Nếu theo lời khuyên của Thái Úy Trần Nhật Hiệu thì vua nhà Trần đã
xin hàng. Nhưng Thái sư Trần Thủ Ðộ có ý kiến khác: “Ðầu tôi chưa rơi xuống đất
thì xin bệ hạ đừng lo.” Cuối cùng nước Việt Nam không bị nhục.
Vị
độc giả trên còn lý luận: “Chưa thấy ai nói đến phương thức chống Trung Quốc
bành trướng một cách có hiệu quả. Chỉ có những cuộc biểu tình ồn ào, không kết
quả.”
Năm
1285 chắc cũng có người nghĩ như vậy. Trước mối đe dọa quân Nguyên sang tấn
công lần thứ ba, Thái thượng hoàng Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông mời các vị
già cả trong nước vào họp ở điện Diên Hồng để tham khảo. Ðại Việt Sử Ký Toàn
Thư viết: “Các phụ lão đều nói ‘Ðánh,’ vạn người cùng hô một tiếng, như bật ra
từ một cửa miệng.”
Ðiện
Diên Hồng có lẽ không đủ rộng để chứa đến một vạn người. Nhưng dù chỉ có hàng
ngàn thì không khí cuộc họp chắc cũng đủ “ồn ào,” náo nhiệt, “muôn người cùng
hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng,” không khác gì trong các cuộc biểu
tình trước tòa đại sứ Trung Quốc gần đây. Những “phụ lão” thời nhà Trần chắc
cũng chỉ trên dưới 50 tuổi, còn quá trẻ so với những “cụ” Nguyễn Quang A đi
biểu tình ở Hà Nội, hay Hòa Thượng Thích Chí Thắng mới xuống đường ở Huế. Các
phụ lão thời đó chắc chỉ vào tuổi cho các cô Trịnh Kim Tiến, Huỳnh Thục Vy gọi
là chú thôi! Nhưng cuộc “biểu tình” trong điện Diên Hồng đã có kết quả. Cuộc
họp mặt hào hùng đó cho thấy một cách “chống Trung Quốc bành trướng.” Phương
thức duy nhất có kiệu quả là: Toàn dân một lòng bảo vệ danh dự quốc gia. Nhờ
thế, sau cùng nước Việt Nam không bị quân Mông Cổ chiếm mất. Nếu vua và dân nhà
Trần đều run sợ mà chịu nhục thì có thể từ đó nước ta đã biến thành một tỉnh
hay một quận của nước Trung Hoa cho tới bây giờ, không khác gì tỉnh Vân Nam.
Vị
độc giả trên đây còn lo sợ: “Dùng quân sự không thể thắng Trung Quốc, Hải quân
ta quá yếu... Trung Quốc đã chế được tàu vũ trụ, Việt Nam ta (chỉ) tổ chức được
(thi) Hoa Hậu Thế Giới. Cán cân đã ngã ngũ. Xin đừng bàn vấn đề này như truyện
kiếm hiệp Kim Dung, chỉ nhục thêm.”
Không
ai muốn “nhục thêm,” nhưng phải hỏi: Nếu có hai còn đường phải chọn, một bên là
im lặng hèn nhát, bên kia là chống cự đến cùng, thì con đường nào nhục nhã hơn?
Không người Việt Nam nào muốn gây chiến tranh với Trung Quốc. Nhưng bị lấn ép
mãi mà không dám đối đầu thì chắn chắn nhục nhã. Mà trong tình thế hiện nay,
Trung Quốc không dám đánh Việt Nam, vì những quyền lợi thiết yếu của họ.
Vào
đời nhà Trần, cán cân lực lượng giữa nước ta và nhà Nguyên cũng chênh lệch
không khác gì với Trung Cộng bây giờ. Có thể nhà Trần còn yếu hơn nhiều vì cả
trăm năm người Việt không biết đến chiến tranh. Quân Mông Cổ thì vừa mới chinh
phục tất cả nước Trung Hoa sau khi làm cỏ suốt vùng Trung Á, sang đến Nga và
Ðông Âu; đạo quân bách chiến tới đâu tàn sát đó rồi đặt người mới cai trị. Dân
số Việt Nam lúc đó được mấy triệu và quân đội nhà Trần có được bao nhiêu người?
Vua nhà Nguyên sai một đạo quân trăm ngàn lính thiện chiến sang đánh, cuối cùng
chỉ còn 20 ngàn tơi tả chạy về. Nhờ đâu nhà Trần giữ vững được bờ cõi nước ta?
Vì toàn dân trên dưới một lòng: Thà làm quỷ nước Nam! Chúng ta cũng đừng quên
rằng các vị vua nhà Trần đều là dòng dõi người Việt gốc Hoa, qua nhiều đời họ
đã hóa thành dân tộc Ðại Việt; nhưng khi cần chống ngoại xâm thì họ vẫn được toàn
dân ủng hộ.
Vị
thế của Trung Quốc bây giờ chắc chắn không mạnh bằng thời nhà Nguyên. Vào thế
kỷ thứ 13, Trung Quốc chiếm địa vị bá chủ trong vùng Á Ðông, về chính trị, kinh
tế, và quân sự. Chưa có những nước Nhật Bản, Nam Hàn giầu mạnh, chưa có khối
Ðông Nam Á cùng lo lắng trước đế quốc Trung Hoa mới. Chưa có nước Nga đè nặng
phía Bắc. Cũng chưa hạm đội thứ bẩy của Mỹ và một ông tổng thống khẳng định vì
quyền lợi nước Mỹ sẽ duy trì sự có mặt ở Á Châu Thái Bình Dương.
Nhà
Nguyên cũng không cần tiền đầu tư ngoại quốc đổ vào, không lệ thuộc các tài
nguyên, nhiên liệu từ các nước Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ để phục hồi kinh tế,
không lo việc dân chúng đòi tự do dân chủ, không sợ bị cả thế giới ngưng giao
thương nếu có hành động hiếu chiến, xâm lăng.
Trung
Cộng bây giờ mang đầy những mối lo tâm phúc đó! Hải Quân Trung Cộng không dám
đánh chiếm đảo Ðiếu Ngư đang bị Nhật chiếm đóng; vì Bắc Kinh không muốn dân
Nhật Bản nổi giận yêu cầu chính phủ tái võ trang, lập lại quân đội. Tầu thuyền
Trung Cộng phải rút khỏi vùng biển tranh chấp với Philippines vì nếu có chiến
tranh thì các nước trong vùng sẽ phải cùng nhau xin liên kết với Mỹ chặt chẽ
hơn. Bắc Kinh cần giữ hòa bình trong vùng biển Ðông nước ta vì nếu con đường
giao thông qua đó bất an thì cả nền kinh tế Trung Quốc sẽ lo không có đủ nguyên
liệu và nhiên liệu để chạy bình thường. Chính Bắc Kinh sẽ lo tránh đụng độ
nhiều hơn nước ta, vì nếu thêm một trăm ngàn dân thất nghiệp thì chế độ cộng
sản sẽ sụp đổ!
Nhà
Nguyên có thể đem quân đánh Việt Nam vì vào thế kỷ 13 nước ta hoàn toàn cô lập.
Cũng giống như năm 1979 Trung Cộng đã “dạy một bài học” cho Lê Duẩn về tội phản
phúc vì Cộng Sản Việt Nam đang bị cả thế giới tẩy chay. Tình trạng thế giới
ngày nay hoàn toàn khác. Không nước nào lo bị cô lập nữa, mà Trung Quốc cũng
không còn địa vị độc quyền bá chủ nữa. Nước Mỹ, Châu Âu cũng như Ấn Ðộ, Nhật
Bản, và các nước Ðông Nam Á sẽ phản ứng mãnh liệt nếu Trung Cộng gây chiến với
Việt Nam. Họ sẽ ngăn cản đến cùng, vì quyền lợi của chính họ chứ chẳng cần họ
phải thương yêu gì nước mình! Ý nghĩ cho rằng Trung Cộng muốn
làm gì thì làm, các nước nhỏ chung quanh phải sợ sệt như giun như dế mới thật
là hoang tưởng. Ðó mới là sống trong “truyện kiếm hiệp Kim Dung!”
Nhưng
vị độc giả có lòng còn lo ngại, viết rằng nếu “Dùng chánh trị (chống lại Trung
Cộng thì sẽ) lệ thuộc Mỹ hoặc phương Tây.”
Ðó
cũng là một điều hoang tưởng. Thế giới bây giờ không ai còn phải lo bị lệ thuộc
như vậy, dù lệ thuộc Mỹ hay lệ thuộc Tàu, nếu tự mình biết khôn ngoan và quyết tâm
bảo vệ nền độc lập. Năm 1940, các nước Anh, nước Pháp đã nhờ quân Mỹ sang đánh
quân Ðức Quốc Xã, sau đó các nước này bị lệ thuộc nước Mỹ hay không? Nếu không
có Mỹ bảo vệ thì Nam Hàn và Ðài Loan đã biến mất từ lâu rồi, nhưng bây giờ ai
dám nói rằng các nước này lệ thuộc Mỹ? Nếu thân với Mỹ mà dân nước họ giầu có,
được sống trong dân chủ tự do được thì tại sao họ không kết thân? Trên thế giới
bây giờ không một nước nào lo phải lệ thuộc nước khác, vì tất cả các nước đều
tùy thuộc vào nhau trong nền kinh tế toàn cầu hóa. Có ai bắt Singapore phải mở
cửa cho tầu chiến Mỹ vào bến tu bổ, có ai bắt họ phải ký hiệp ước tự do thương
mại với Mỹ hay không? Chẳng qua là vì Singapore thấy các hành động đó có lợi
cho dân họ!
Vị
độc giả nêu những ý kiến trên đây có thể vì tấm lòng lo cho đất nước thật.
Nhưng các ý kiến đó cũng là luận điệu để bào chữa cho thái độ khiếp nhược, sợ
hãi một cách vô lý trước các hành động gây hấn và lấn áp của Cộng Sản Trung
Quốc. Ðó cũng là luận điệu mà Bắc Kinh muốn người mình truyền cho nhau nghe. Ðể
cho cả nước Việt Nam chết nhát! Người Việt Nam không hèn nhát như vậy, ngay từ
thời Hai Bà Trưng, bà Triệu.
Không thể chấp nhận những luận điệu hèn nhát, chưa chi đã
lo nước Việt Nam không đủ sức chống lại Trung Cộng. Những kẻ đưa ra các luận điệu đó
chỉ làm trò “rung cây nhát khỉ” để phục vụ Bắc Kinh và biện minh cho những thái
độ khiếp nhược của họ. Nếu mỗi lần Trung Cộng tấn công tầu đánh cá Việt
Nam, bắt cóc các ngư dân nước mình, thì một chính quyền Việt Nam biết trọng
danh dự đã hành động trả đũa liền. Có thể quyết định tống xuất một ngàn công
nhân Trung Quốc làm việc không giấy phép ở trong nước ta ngay sau khi “tầu lạ”
đánh dân mình. Ðang có hàng chục ngàn di dân lậu trong đám các công nhân Trung
Quốc, một đêm là có thể tìm ra một ngàn người dễ dàng. Trục xuất di dân lậu là
một việc làm hợp pháp, hợp đạo lý, quốc tế phải công nhận là đúng lẽ phải. Liệu
Trung Cộng có dám vì thế mà đem quân sang đánh nước ta hay không? Thế giới có
ngồi im cho họ hành động ngang ngược như vậy hay không? Dân Việt Nam đã
hèn nhát từ bao giờ vậy?
Năm 1974 ông Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh Hải Quân Việt Nam chống
cự đến cùng khi quân Trung Cộng tiến đánh Hoàng Sa. Lúc đó ông tổng thống Việt
Nam Cộng Hòa chắc phải biết rằng những người lính sắp ra trận sẽ phải chịu hy
sinh. Dù biết như vậy, ở địa vị người lãnh đạo một quốc gia, ai cũng phải ra
lệnh tử chiến. Họ không thể chỉ nghĩ đến kế an toàn cho mỗi người lính. Vì phải
bảo toàn danh dự quốc gia, vì còn phải nghĩ đến tổ tiên và con cháu.
Những người lính Việt Nam bảo vệ thành phố Lạng Sơn năm 1979 có
biết rằng họ sắp bỏ mình trước biển người quân Trung Cộng hay không? Tại sao họ
vẫn cầm súng chống cự tới cùng? Thiếu Tá Ngụy Văn Thà khi cùng các chiến sĩ Hải
Quân Việt Nam chống cự tới cùng đến lúc chỉ còn lưỡi lê trên đầu súng, họ có
biết là họ sắp hy sinh hay không? Tại sao họ vẫn bám lấy mảnh đất Hoàng Sa cho
đến chết? Tất cả những người lính Việt Nam, dù ở miền Nam hay miền Bắc, đều
biết họ sẽ chết, nhưng chết cho tổ quốc Việt Nam. Vì bổn phận với tiền nhân bao
đời trước. Vì biết còn bao nhiêu thế hệ con cháu đời sau. Người Việt Nam xưa
nay không khiếp nhược.
dieu khac chan may
ReplyDeletedieu khac chan may nam
dieu khac chan may nu
điêu khắc chân mày
điêu khắc chân mày nam
điêu khắc chân mày nữ
dieu khac long may
điêu khắc lông mày
dieu khac long may nam
dieu khac long may nu