Hồ Bạch Thảo
Cập
nhật : 27/07/2012 00:08
Chính sử Trung Quốc,
cho đến đời nhà Thanh, đều chỉ khẳng định chủ quyền trên những đảo ven biển
(trong Minh sử, thậm chí Đài Loan, Bành Hồ đều thuộc "ngoại quốc").
Hoàn toàn không có chuyện Hoàng Sa, Trường Sa là đất Trung Hoa.
*
*
Dưới
thời Nguyên, Trung Quốc mang binh thuyền tấn công Nhật Bản bị thất bại ; thời
Vĩnh Lạc triều Minh, hạmđội của Trịnh Hòa dương oai tại vùng Ðông Nam Á, việc
làm chỉ được tiếng, nhưng tốn kém quá nhiều, có lần bị giết 170 người tại Trảo
Oa [Java] 1,
nên cuối cùng đến đời Tuyên Ðức chương trình nàyđành phải dẹp bỏ. Suốt hai
triều đại Minh, Thanh ; quân Nhật [Nụy] thao túng cướp phá vùng biển, Trung
Quốc chỉ phòng thủ trên bờ và ven biển cũng không xong, nên không màng đến biển
cả. Bằng cớ ngay cảc đảo lớn giàu tài nguyên như Ðài Loan, Bành Hồ, được liệt
vào ngoại quốc trong Minh Sử 2!
Biển lúc bấy giờ là mối hệ lụy, nên Trung Quốc chủtrương phòng thủ thụ động
trên bờ, bỏ mặc đại dương không chiếu cố đến. Sách lược này được phảnảnh một
cách cụ thể trong trường hợp viên Tổng đốc Lưỡng Quảng Ngô Hùng Quang xin chế
tạo nhiều thuyền đểra biển bắt cướp ; bị vua Gia Khánh bác và khẳng định quốc
sách là phòng thủ tại cảng và truy lùng những người trên bờ ngầm mua bán hợp
tác với bọn cướp :
Ngày
2 Kỷ Tỵ tháng 12 năm Gia Khánh thứ 12 [30/12/1807]
...Còn
trong tấu triệp Ngô Hùng Quang trình bày rằng “Thuyền cướp qua lại đợi chờ mới
liên lạc được với bọn gian trên bờ, nếu thuyền binh khẩn trương theo tung tích
truy nã, thì bọn chúng không thi thố được thủ đoạn. Vậy muốn ngăn tiếp tế, nên
tu tạo nhiều thuyền, xuất dương truy bắt.”
“Ðiều
này không đúng, về bọn cướp biển, gạo, nước, thuốc súng đều nhờ vào trên bộ.
Bọn giặc trên bờ và dưới nước vốn quen nhau, ngầm giao dịch, cũng không phải
chờ bọn cướp biển lên bờ tìm kiếm mới được tiếp tế. Tổng chi, đáng ra lệnh các
quan văn võ tại cửa biển mật cho tuần tra, nghiêm bắt, trừng trị nặng ; bọn phỉ
trên bờ co rút lại, thì mớiđoạn tuyệt việc tiếp tế.
Nếu
làm theo lời tâu, chế tạo nhiều thuyền bè, xuất dương đánh bắt, theo sát gót
tung tích thuyền cướp, không để cho chúng nhàn rỗi hoành hành. Nhưng không biết
rằng trên đại dương có bao nhiêu thuyền cướp đểtheo bén gót, vả lại trên biển
dòng nước bất đồng, gió bão không định, khó mà ra lệnh thuyền nào của ta theo
dõi thuyền nào của giặc cướp. Hãy suy nghĩ nếu bọn giặc biển không biết bọn phỉ
trên cạn, đột nhiên đến mua nước, gạo, thuốc súng, thì ai mà bán cho. Ðiều đó
khẳng định rằng việc cấm bọn phỉtiếp tế tất phải nghiêm tra trên bờ, làm vững
rào dậu là biện pháp chính. Phúc Kiến nghiêm cấm tiếp tế tại cửa biển, thực
hiện hữu hiệu, tỉnh Quảng Ðông cần nhất luật thực hiện…” (Nhân Tông
Thực Lụcquyển 189, trang 7)
Cùng
đề cao sách lược phòng thủ thụ động nơi ven biển, tại quyển 9, Hải Phòng, trong
Quảng Ðông Thông Chí, Tổng đốc Hác Ngọc Lân tóm tắt :
“
Phàm thuyền đến không cho đậu, đi không tiếp tế ;thì dân chúng duyên hải đều
được yên gối mà ngủ.”
Với
chính sách về biển như vậy, nên từ triều Thanh trở về trước, tại biển nam,
Trung Quốc giới hạn vùng lãnh hải gần bờ ; nhường phần còn lại cho An Nam,
đểnước này cáng đáng việc đánh bắt cướp biển ngoài khơi. Cũng trong quyển 9,
Quảng Ðông Thông Chí,có đoạn chép về giới hạn biển giữa Trung Quốc và
Việt Nam, nguyên văn như sau :
Xung
yếu :
Từ
huyện Lạc Hội, phủ Quỳnh Châu, khởi đầu tiếp giáp với biên giới [biển] An Nam :
-
Vũng Hải Ðiều : giới hạn huyện Văn Xương
-
Cảng Phố Tiền : giới hạn huyện Hội Ðồng
-
Cảng Thần Ứng : giới hạn phủ Quỳnh Châu
-
Phố Phong Doanh : giới hạn phủ Quỳnh Châu
-
Phố Ma Ðầu : giới hạn huyện Lâm Cao
-
Phố Cung Loan : giới hạn huyện Lâm Cao
-
Loan Ðiền Hòa : Giới hạn châu Ðam
-
Núi Nga Trá : giới hạn huyện Xương Hóa
-
Doanh Bạch Sa : giới hạn huyện Cảm Ân
-
Ðại Ðộng Thiên : giới hạn châu Nhai
-
Tiểu Ðộng Thiên : giới hạn châu Nhai
-
Vũng Nha Lang : giới hạn huyện Lăng thủy
-
Cửa Song Châu : giới hạn huyện Lăng Thủy
-
Thất Thập Nhị kính : giới hạn châu Khâm
-
Nha Sơn : giới hạn châu Khâm
-
Ðạm Thủy Loan : giới hạn châu Khâm
-
Doanh Cách Mộc : giới hạn huyện Linh Sơn
-
Núi Ô Lôi : giới hạn huyện Linh Sơn
-
Ao Thanh Anh : giới hạn phủ Liêm Châu
-
Ao Dương Mai : giới hạn phủ Liêm Châu
-
Ao Bình Giang : giới hạn phủ Liêm Châu
-
Thiệu Châu : giới hạn sở Vĩnh An
-
Mão Châu : giới hạn sở Hải An
-
Vi Châu : giới hạn sở Cẩm Nang
Sau
đây xin tìm hiểu từng địa danh, trình bày theo trình tự từ gần đến xa, tức từ
hướng tây sang đông :
1. Thất thập nhị kính : giới hạn châu Khâm
Ðại
Thanh Nhất Thống Chí 3xác
nhận Thất Thập Nhị Kính là 72 đường thủy chạy quanh co tại Long Môn :
Ngoài
Long Môn quần sơn nhấp nhô, chia biển ra thành 72đường thủy đạo, theo núi quanh
co, đường nọ vớiđường kia có thể thông nhau, người đời thường gọi“ Long Môn
thất thập nhị kính ” là tại đây.
Bản
đồ Google phóng lớn ghi vị trí Long Môn Cảng Trấn, tại tọa độ
21.726334,108.57170 (Quý vị chưa quen, xin chép dãy số bên cạnh, mở
Google map, chép vào ô chữnhật, rồi gõ vào hình mặt kính ô màu bên phải, thì
sẽthấy vị trí trên bản đồ). Qua lời tâu dưới đây của Tổng đốc Lưỡng Quảng
Trần Ðại Thụ thời Càn Long, cũng xác nhận vùng Long Môn, châu Khâm, giáp với
biển Bạch Long Vĩ nước ta :
Ngày
30 Tân Mùi tháng 5 năm Càn Long thứ 15 [3/7/1750]
Tổng
đốc Lưỡng Quảng Trần Ðại Thụ tâu :
“
Vùng Long Môn, Khâm Châu Quảng Ðông giáp giới với biển Bạch Long Vĩ, thuộc
An Nam. Thuyền buôn nội địa[Trung Quốc] qua lại gặp những sự cố, hoặc
những lính tráng đào ngũ trốn tránh tại nơi đây, ta cho là biển của nước Di,
nên từ chối không phòng ngự… Nhận được chiếu chỉ :
“
Ðiều thấy đúng, đã hiểu rõ.”(Cao Tông Thực Lụcquyển 365,
trang 34)
Cũng
cần lưu ý rằng địa danh Bạch Long Vĩ là một doiđất nhô ra biển, giống như đuôi
rồng, tại tọa độ21.49588,108.230438, chứ không phải là đảo Bạch Long vĩ.Vùng
đất ven biển này và cả khu Giang Bình, Hoàng Trúc ; do người Pháp nhường cho
nhà Thanh sau hòa ước Thiên Tân năm 1885 ; vua Quang Tự xác nhận việc nhường
đất qua văn bản dưới đây :
Ngày
26 Ðinh Vị tháng 4 năm Quang Tự thứ 14 [5/6/1888]
Dụ
các Quân cơ đại thần :
….Ðịa
phương châu Khâm rộng rãi, lần này định biên giới, Ðại thần họ Vương 4thuộc Tổng lý các
quốc sự vụ nha môn cùng Sứ thần Pháp qua lại biện luận, mới đem các xứ Bạch
Long Vĩ,Hoàng Trúc, Giang Bình nhất luật đưa về Trung Quốc ; từnay về sau chốn
hiểm yếu, đặt việc phòng thủ rất quan trọng... (Ðức Tông Thực
Lụcquyển 254, trang 14-15)
2. Nha Sơn : giới hạn châu Khâm
Núi
Nha Sơn [牙山島] : núi ở ngoài biển, phía đông cách Long Môn 60 lý
[34 km] ; giữa biển nhô lên 3 ngọn núi, chiều ngang hàng chục lý, hình như 3
chiếc răng. Gần Nha Sơn 20 lý [11.6 km] có mũi Kim Cổ,phía đông có vũng
Ô Lôi, phía tây có núi Mã Yên, đều là cảng, có thể đậu thuyền ngoài biển.
Qua
bản đồ Google thấy hình dáng Nha Sơn như 3 chiếc răng chìa ra biển, tại tọa độ
21.701934,108.622856
3. Ðạm Thủy Loan : giới hạn châu Khâm
Bản
đồ Google xác nhận Ðạm Thủy Loan hình giống đường vạch chìa ra biển, tại tọa độ
21.719477,108.651695
4. Doanh Cách Mộc : giới hạn huyện Linh Sơn
Vị
trí doanh Cách Mộc, không rõ ; tuy nhiên huyện Linh Sơn tại phía đông châu
Khâm.
5. Núi Ô Lôi : giới hạn huyện Linh Sơn
Ðại
Thanh Nhất Thống Chí chép về Ô Lôi lãnh như sau :
Ô
Lôi lãnh : phía đông nam châu Khâm 160 lý [92 km], còn có tên là Ô Lôi môn,
nhô lên từ biển ; vì vị trí hiểm trở nên được đặt binh phòng giữ. Theo Châu Chí
mạch núi từ núi Na Mộ chạy quanh co tạo thành Thập Nhị lãnh rồi ra biển, qua
trước miếu Phục Ba, thủy trình vào phủ Liêm Châu qua đây.
Trên
bản đồ Google hiện có Ô Lôi thôn, là một bán đảo tại tọa độ
21.613707,108.735981
6. Ao Thanh Anh : giới hạn phủ Liêm Châu
Dưới
thời Minh, tác phẩm Trù Hải Ðồ Biêncủa Tổngđốc Hồ Tôn Hiến, còn
lưu lại một số bản đồ duyên hài, trong đó có bản đồ vùng biển châu Khâm. Tại
bảnđồ này, cũng ghi lại các địa danh được đề cập ởtrên như : Thất Thập Nhị Kính
[-3-], Nha Sơn [-4-], Ô Lôi Sơn [-5-]. Ngoài ra còn ghi vị trí Thanh Anh trì
tại [-6-],đây là ao nuôi ngọc trai ngoài biển. Cần lưu ý, phương pháp thể hiện
bản đồ Hồ Tôn Hiến trái ngược với bản đồ ngày nay ; ở chỗ phía trên chỉ hướng
nam, phía trái chỉ hướng đông và tỷ lệ xích cũng không hoàn toàn chính xác ;
tuy nhiên đây là tác phẩm cổ trên 500 năm về trước, cũng cần được tham khảo.
Bản đồGoogle không ghi ao Thanh Anh, xin suy ra từ bản đồ Hồ Tôn Hiến để tạm
chấm tọa độ : 21.601258,108.802414
Bản
đồ vùng biển châu Khâm của Hồ Tôn Hiến :
Phiên
âm tên các đảo và địa danh cần lưu ý :
-
1. Ðại Lộc Ðôn.
-
2. Tiểu Lộc Ðôn
-
3. Thất Thập Nhất Kính
-
4. Nha Sơn
-
5. Ô Lôi Sơn
-
6. Thanh Anh Trì
-
7. Vùng biên giới nước An Nam
-
8. Thành châu Khâm
7. Ao Dương Mai : giới hạn phủ Liêm Châu
Trên
bản đồ vùng biển châu Liêm của Tổng đốc HồTôn Hiến có ghi nhận hồ ngọc trai
Dương Mai trì tại [-1-] (còn gọi là Dương Hải trì). Riêng bản đồ Google không
chép, suy ra từ bản đồ Hồ Tôn Hiến tạm chấm tọa độ : 21.611472,108.850479
8. Ao Bình Giang : giới hạn phủ Liêm Châu
Bản
đồ Hồ Tôn Hiến ghi Bình Giang Trì tại [-4-], riêng Google không ghi, căn cứ Hồ
Tôn Hiến tạm chấm tọa độ21.610196,108.904724
9. Thiệu châu : giới hạn sở Vĩnh An
Bản
đồ Hồ Tôn Hiến ghi Thiệu Châu tại [-6-], riêng Google không ghi, nên căn cứ Hồ
Tôn Hiến tạm chấm tọađộ 21.582104,108.980255
10. Mão châu : giới hạn sở Hải An
Bản
đồ Hồ Tôn Hiến ghi Mão châu tại [-7-], riêng Google không ghi, nên căn cứ Hồ
Tôn Hiến tạm chấm tọađộ 21.59232,109.049606
Bản
đồ vùng biển phủ Liêm Châu của Hồ Tôn Hiến :
Phiên
âm tên các đảo và địa danh cần lưu ý :
-
1. Dương Mai Trì
-
2. Xà Sơn
-
3. Xà Dương Châu
-
4. Bình Hà Trì
-
5. Châu Mẫu Hải
-
6. Thiệu Châu
-
7. Mão Châu
-
8. Liêm Châu Phủ
11. Vi Châu : giới hạn sở Cẩm Nang
Quảng
Ðông Thông Chí
xác nhận đảo Vi Châu, tại sởCẩm Nang, giáp giới với biển Việt Nam. Ðảo này
vịtrí tại phía nam huyện thành Hợp Phố khoảng 200 lý, chu vi 70 lý ; xưa là sào
huyệt giặc cướp, đời Minh Vạn Lịch di dân đến canh tác 6.
Thanh
Thực Lục
cũng xác nhận thêm Vi Châu là cửa ngõ của 3 phủ Cao Châu, Lôi Châu, Quỳnh Châu
; mặt phía tây thuộc biển Việt Nam :
Ngày
18 tháng 3 năm Ðạo Quang thứ 13 [9/3/1833]
…Lại
căn cứ theo Cao Nghi Dõng khám xét biển phía đông nam Long Dương, thuộc 3 phủ
Cao, Lôi, Quỳnh, trong đó cóđảo Vi Châu làm cửa ngõ, mặt phía tây thuộc Việt
Nam, thuyền cướp thường trốn tại núi Cẩu Ðầu ; cần phải chặn việc tiếp tế lương
thực, thuốc súng ; ngăn con đường vượt biên giới ăn cướp. Lại dò biết thuyền
cướp có hơn 1 chục chiếc, trốn tránh xa tại châu Giáp, núi Cẩu Ðầu thuộc đất Di [Việt Nam], quân
ta không quen đường cát, khó có thể đi xa. Ðáng phải thông báo cho Việt Nam,
xua đuổi ra đánh. Duy cương vực Hoa, Di có phân biệt, phải biết rõ tình hình,
thì mới có thể đánh bắt không để sót... (Tuyên Tông Thực Lục,
quyển 230, trang 6- 8)
Riêng
bản đồ Google ghi nhận Vi Châu đảo tại tọa độ21.046695,109.117584
12. Vũng Hải Ðiều : giới hạn huyện Văn Xương
Bản
đồ Google không ghi vũng Hải Ðiều, riêng Văn Xương thị thuộc tỉnh Hải Nam, tọa
độ 19.538437,110.807419
13. Cảng Phố Tiền : giới hạn huyện Hội Ðồng
Ðại
Thanh Nhất Thống Chí 7xác
nhận cảng Phố Tiền tại phía bắc huyện Văn Xương 150 lý :
Cảng
Phố Tiền : tại phía tây bắc huyện Văn Xương 150 lý [87 km], sông từ
huyện Quỳnh Sơn chảy đến hợp với sông Tam giang để ra biển. thương thuyền tập
trung nơiđây tạo thành nơi yết hầu của huyện.
Riêng
bản đồ Google ghi nhận Phố Tiền cảng tại tọađộ 20.042386,110.510101
14. Cảng Thần Ứng : giới hạn phủ Quỳnh Châu
Khâm
Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí 8xác
định vị trí cảng cách huyện Quỳnh Châu 10 lý vềphía bắc :
Cảng
Thần Ứng : tại phía bắc huyện Quỳnh Châu 10 lý[5.8 km], còn có
tên là cửa khẩu Bạch Sa. Dư Ðịa KỷThắng chép bến Bạch Sa tại huyện Quỳnh Châu
thuyền các nước Phiên tụ tập ; bờ biển khuất khúc thuyền lớn không thông. Vào
thời Kiến Viêm soái xứ Quỳnh Châu là Nghiêm Quang Tổ cho khai cảng để tiện việc
buôn bán, cảng tuy mở nhưng cát lại lấp ; vào năm Thuần Hy Mậu Thân, một trận
cuồng phong xẩy ra, tạo thành cảng lớn hơn trước, nên có tên là cảng Thần Ứng.
Google
không ghi vị trí cảng Thần Ứng, nhưng có ghi Quỳnh Sơn khu tại tọa độ
19.991417,110.348053
15. Phố Phong Doanh : giới hạn phủ Quỳnh Châu
Không
rõ vị trí.
16. Phố Ma Ðầu : giới hạn huyện Lâm Cao
Không
rõ phố Ma Ðầu, tuy nhiên Google ghi nhận vị trí Lâm Cao huyện tại tọa độ
19.915257,109.706726
17. Phố Cung Loan : giới hạn huyện Lâm Cao
Không
rõ vị trí.
18. Ðiền Hòa loan : giới hạn châu Ðam
Khâm
Ðịnh Ðại Thanh Nhất Thống Chí 9chép
là cảng Hòa Ðiền, tại phía bắc châu Ðam 45 lý :
Cảng
Hòa Ðiền : tại phía bắc châu Ðam 45 lý [26 km] ; lại có cảng Nga Man tại phía
bắc châu 40 lý [23 km], tạiđó có 36 khe, khi thủy triều lên thì nước
tràn ngập, khi thủy triều xuống thì nước khe chảy ra trong vắt. Lại có cảng
Hoàng Sa tại phía tây bắc châu 40 lý [23 km], gần với cảng Nam Khê. Châu
Chí chép trong châu có hàng chục cảng, nhưng tại Hòa Ðiền bị giặc cướp quấy
nhiễu nhiều, vì từ Lâm Cao xuống chỉ có cảng này có thể lấy được nước nhưng
không có thành đáđể ngăn, lại còn cách xa châu lỵ.
Riêng
bản đồ Google không ghi cảng Ðiền Hòa, nhưng xác nhận Ðam Châu cảng tại tọa độ
19.726635,109.285126
19. Núi Nga Trá : giới hạn huyện Xương Hóa
Bản
đồ Google không ghi núi Nga Trá, nhưng xác nhận cảng Xương Hóa tại tọa độ
19.326695,108.646545
20. Doanh Bạch Sa : giới hạn huyện Cảm Ân
Bản
đồ Google không ghi doanh Bạch Sa, nhưng xác nhận Cảm Thành trấn tại tọa độ
18.848787,108.631439
21. Ðại Ðộng Thiên, Tiểu Ðộng Thiên : giới hạn châu Nhai
Tại
vùng châu Nhai, gần Tam Á, Google ghi nhận địa danh Ðại Tiểu Ðộng Thiên tại tọa
độ 18.293906,109.150887. Ngoài ra một đạo dụ của vua Ðạo Quang trong Thanh
Thực Lục, xác nhận rằng bãi Ðồi Mồi [Ðại Mạo châu] thuộc vùng Tam Á,
châu Nhai, gần Ðại Ðộng Thiên, tiếp giáp với biển Việt Nam :
Ngày
30 Nhâm Dần tháng 11 năm Ðạo Quang thứ 12[20/1/1833]
Lại
dụ :
...
Lại cứ Lý Tăng Giới xưng rằng bọn Phó tướng Lý Hiền tuần tiễu đến bãi Ðại Mạo [đồi mồi] vùng
biển ngoài Nhai Châu, Tam Á, chỗ này tiếp giáp với biển Di Việt Nam, thấy 3
thuyền phỉ, mỗi thuyền 1, 2 ngàn người, bèn cho đuổi bắt... (Tuyên
Tông Thực Lụcquyển 226, trang 28- 30)
22. Vũng Nha Lang, cửa Song Châu : giới hạn huyện Lăng Thủy
Bản
đồ Google không ghi vũng Nha Lang, cửa Song Châu ; nhưng ghi nhận huyện tự trị
Lăng Thủy Lê tộc tại tọađộ 18.49654,110.069275
Không
kể vùng biển gần các phủ Liêm Châu và Quỳnh Châu được đề cập ở trên, những biển
xa như quầnđảo Hoàng Sa của ta, mà người Trung Quốc xưa thường gọi là Thiên Lý
Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường, thì sử chí của họ chỉ đề cập một cách mơ hồ theo
lời truyền ngôn. Các nhà khảo cứu nước này thường thuật lại qua lời kể của
những người đi biển bị nạn, nên câu chuyện được thêm thắt vào đầy vẻ ma quái
hoang đường. Chẳng hạn, sách Hải Ngữ [海語]của
Hoàng Trung đời Minh, chép về Vạn Lý Thạch Ðường như sau :
Vạn
Lý Thạch Ðường tại phía đông biển Ô Trư và Thạch Trư. Tại đó tuy trời nắng
nhưng vẫn âm u, không giống như trong cõi trần ; thổ sản nhiều xà cừ. Chim có
nhiều loại quỷ xa, có thứ 9 đầu, có thứ 3,4 đầu, rải rác khắp biển ; tiếng kêu
gào ầm ỹ đến mấy dặm ; tuy kẻ ngu và loại hung hãn cũng xúc động buồn thảm, mồ
hôi toát ra. Châu sư hàng hải trên thuyền lỡtay lái thất thế, đâm vào đá tảng,
thì hàng trăm mạng biến thành quỷ !
Tuy
nhiên mới đây, để phụ họa cho việc tranh giành biển đảo, những nhà nghiên cứu
viết theo đơn đặt hàng tại Trung Quốc cố tình gán ghép Trường Sa Thạch Ðường
vào phủ Quỳnh Châu tức đảo Hải Nam, hoặc châu Vạn của phủ này. Nhắm vạch trần
luận điệu sai trái đó, xin dịch nguyên văn cương vực phủ Quỳnh Châu và Châu
Vạn, được chép trong Quảng Ðông Thông Chíđểthấy một cách hiển
nhiên rằng Thiên Lý Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường hay quần đảo Hoàng Sa, không
thể nằm trong đó được :
Phủ
Quỳnh Châu
: Phía nam là Chiêm Thành, tây là Chân Lạp, Giao Chỉ ; đông là Thiên Lý
Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường, phía bắc là huyện Tư Văn, phủ Lôi Châu.
Châu
Vạn
: Bề ngang rộng 205 lý, dọc 120 lý ; đông đến bờ biển 25 lý, tây đến núi Giá
Cô Ðề 180 lý bên ngoài dân Sinh Lê sống, nam đến bờ biển 25 lý, bắc đến biên
giới huyện Lạc Hội 95 lý.
*
Sự
việc xẩy ra mỗi thời mỗi khác ; từ đầu thế kỷ20 đến này, sau khi phát hiện tiềm
năng khoáng sản nơi đại dương, người Trung Quốc tìm mọi cách tranh giành biển
đảo. Cố tình quên đi sự thật lịch sử việc triều đình Trung Quốc công nhận vùng
biển của Việt Nam, đã biết bao lần gửi chỉ dụ sang kêu gọi đánh dẹp giặc biển
ngoài khơi ; nay họ vẽ bản đồ lưỡi bò đòi giành 80 % vùng biển đông, to tiếng
rằng đó là bằng chứng không thể tranh cãi được! Ðến đây, nhân vấn đề thời sự
biển đảo, chợt nhớ đến Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du, vốn mang dấu ấn từ hai dân
tộc ; người viết bèn bắt chước “tập Kiều”, với câu thơ Thúy Kiều trách vấn Tú
Bà như sau :
“
Giờ ra thay bực đổi ngôi,
Dám xin gửi lại một lời cho minh.”
Dám xin gửi lại một lời cho minh.”
Hồ
Bạch Thảo
No comments:
Post a Comment