Jul 30, 2012 6:10 AM
Dư
luận VN hiện nay đang xôn xao về tấm bản đồ nước Trung Hoa xuất bản năm 1904,
dưới thời nhà Thanh, mang tên “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ”. Bản đồ
này vẽ lãnh thổ của Trung Quốc năm 1904 không có các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Mọi người vui mừng cho rằng đó là một bằng chứng rõ rệt chứng minh
các quần đảo HS và TS không thuộc TQ.
Theo tôi, không có
điều gì chắc chắn để vui mừng hết. Giả sử phía TQ đưa ra các bản đồ sau
đây :
1/ Bản đồ thế giới do Bộ Tổng tư lệnh
Quân đội Nhân dân Việt Nam xuất bản năm 1960. "Trên bản đồ này, quần đảo
Nam Sa (Trường Sa) được đánh dấu là lãnh thổ Trung Quốc."
2/ Cục Bản đồ của Việt Nam xuất bản tấm
bản đồ năm 1972, trong đó quần đảo Nam Sa được chú thích bằng tiếng Hoa, chứ
không phải bằng tiếng Việt, tiếng Anh hay tiếng Pháp."
Tài liệu trên đây
dẫn từ nguồn :
Nếu hai tấm bản đồ này có thật, lúc đó
phản ứng mọi người sẽ ra sao ? Không lẽ bó tay chấp nhận HS và TS thuộc
TQ ?
Nếu không lầm, bản
đồ 1904 của Trung Hoa, lãnh thổ nước này bao gồm nước Mông Cổ hiện nay. Nếu ta đi ngược
thời gian xa hơn, các bản đồ nước Trung Hoa cũng không hề chú dẫn hai quần đảo
HS và TS, nhưng trong vài bản đồ lãnh thổ nước này bao gồm nước VN. Không lẽ
phía TQ trưng tấm bản đồ này thì phải công nhận VN thuộc TQ ?
Điều
may là các tấm bản đồ thường không có giá trị quyết định trên quan điểm pháp
lý.
Thật
vậy, theo thông lệ công pháp quốc tế, « bản đồ » tự nó thường không
được nhìn nhận như là một « bằng chứng » mà chỉ được xem như là
một « tài liệu - information », để bổ túc thêm cho một « lý lẽ -
argument », hay để khẳng định một « thái độ » nào đó của một bên
tranh chấp.
Tấm
bản đồ do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam xuất bản năm 1960 và tấm
do Cục Bản đồ của Việt Nam xuất bản tấm bản đồ năm 1972 tự nó không có giá trị
pháp lý, (cũng như tấm bản đồ 1904 của nhà Thanh), nhưng
nếu vấn đề tranh chấp HS và TS được đưa ra một tòa án quốc tế để phân giải,
chắc chắn các tấm bản đồ này sẽ được phía TQ sử dụng nhằm vào việc làm rõ ý
kiến của phía VN (nhìn nhận HS và TS thuộc TS) qua tuyên bố đơn phương 1958
(thể hiện qua tấm công hàm của ông Phạm Văn Đồng).
Nhiều
vụ án về tranh chấp lãnh thổ do Tòa Án Công lý Quốc Tế (CIJ) phân xử, đa số các
trường hợp các bản đồ được các bên trưng dẫn thì không được xem như là
« bằng chứng » vì chúng không có tác động trực tiếp đến quyết định
của các quan tòa. Yếu tố quyết định cho phán quyết
của tòa luôn là « thái độ » của nhà nước đối với vùng lãnh thổ tranh
chấp.
Một tấm bản đồ có
giá trị pháp lý chỉ khi nó được đính kèm với các văn bản của một hiệp đinh phân
định biên giới.
Dĩ nhiên hiệp ước này phải còn hiệu lực (do việc không có hiệp ước nào khác ký
kết sau này thay thế). Tuy vậy, nhiều trường hợp lịch sử cho thấy nhiều tấm bản
đồ phân định biên giới đã không phù hợp với nội dung của công ước. Trong trường hợp này, theo thông
lệ quốc tế, văn bản có hiệu lực « cao » hơn bản đồ. Một số
trường hợp khác, bản đồ phân định, cũng như nội dung văn bản, cả hai đều không
phù hợp với địa hình trên thực địa. Như trường hợp phân định biên giới giữa
Pháp và nhà Thanh biên giới giữa Bắc Kỳ và các tỉnh Hoa nam năm 1887, hầu hết
nội dung các biên bản phân định cũng như các bản đồ đính kèm đều không phù hợp
với địa hình trên thực tế (xem thêm phần tham khảo). Trường hợp này, các công
trinh phân giới sau này (1888-1897) cùng với bộ bản đồ vẽ trên kết quả cắm mốc,
mới có giá trị thực sự. Tuy vậy, trong các hồ sơ chính thức hiện nay được lưu
trữ trong các thư viện thế giới, đường biên giới Việt Trung 1887 chỉ thể hiện
qua 3 trang mô tả sơ sài cùng với các bản đồ (hoàn toàn sai) đính kèm. Vì thế
nhiều học giả trên thế giới đã có nhận định sai trong các công trình nghiên cứu
vì chỉ dựa trên nội dung của công ước mà không tham khảo tài liệu giai đoạn
phân giới.
Trường
hợp đặc biệt cũng nên nói lại sau đây, là tranh chấp hai nước Thái Lan và
Kampuchia về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear. Nguyên nhân tranh chấp là tấm bản
đồ đính kèm công ước vẽ không đúng với nội dung công ước. Theo tấm bản đồ (vẽ
sai) này, ngôi đền thuộc về lãnh thổ Kampuchia trong khi nội dung văn bản xác
định đường biên giới là đường phân thủy của một rặng núi. Trên tinh thần đó
ngôi đền phải nằm trên lãnh thổ Thái Lan. Nội vụ tranh chấp được đưa ra Tòa án
Công lý Quốc tế (CIJ). Lý ra, hiệu lực nội dung văn bản có giá trị cao hơn bản
đồ, tức ngôi đền phải thuộc về Thái Lan, nhưng vì thái độ của nhà nước Thái Lan
(về ngôi đền) trong nhiều thời kỳ đã khiến quan tòa phán quyết chủ quyền ngôi
đền Preah Vihear thuộc về Kampuchia. Xét thấy trường hợp này (thái độ của nhà
nước Thái) khá trùng hợp với thái độ của nhà nước VNDCCH và CHXHCNVN về chủ
quyền của VN tại HS và TS, người viết dẫn ra đây vài đoạn để mọi người cùng suy
nghĩ cho tình trạng tranh chấp lãnh thổ giữa đất nước mình với Trung Quốc hầu
kịp thời tìm kiếm một phương án giải quyết.
Tranh chấp hai bên
Thái-Miên về ngôi đền Preah Vihear được đưa ra Tòa án Quốc tế ngày 6 tháng 10
năm 1959. Vụ án có mã số CIJ 65.
Vụ
xử ngôi đền Preah Vihear xảy ra ngày 15 tháng 6 năm 1962. Những đoạn quan trọng
được ghi lại như sau (nguồn CIJ) :
Ngôi
đền cổ Preah Vihear ở trong tình trạng hoang phế,
tọa lạc trên một mỏm núi thuộc rặng Dangrek. Rặng núi
này là biên giới giữa hai nước Thái Lan và Cambodge. Tranh chấp có nguyên nhân
từ việc phân định biên giới bắt đầu từ năm 1904 đến năm 1908 giữa nước Pháp,
đại diện Đông Dương, và nước Xiêm. Việc phân định này dựa lên công ước ngày 13
tháng 2 năm 1904. Công ước này đã thiết lập một cách tổng quát hướng đi đường
biên giới. Đường này được xác định cụ thể bởi một ủy ban phân định hỗn hợp
Pháp-Thái.
Ở khu vực có ngôi đền Preah Vihear, (theo nội dung công ước) đường
biên giới phải theo đường phân thủy. Ngày 2 tháng 12 năm 1906, một ủy ban hỗn
hợp ra thực địa xác định đường phân thủy. Từ tháng giêng – tháng hai năm 1907,
ủy ban Pháp đã báo cáo lên chính phủ của họ rằng đường biên giới đã hoàn toàn
được phân định.
Việc cuối cùng của công trình phân định là vẽ bản đồ đính kèm. Nhà
nước Xiêm, vì không có phương tiện lỷ thuật, đã yêu cầu nhân sự phía Pháp để
thành lập các bản đồ vùng biên giới. Các bản đồ đã được một ê kíp người Pháp
hoàn tất vào mùa xuân năm 1907. Một tấm bản đồ của công trình này được giao cho
nhà nước Xiêm, theo đó đền Preah Vihear nằm trên lãnh thổ Khmer.
Tấm
bản đồ đính kèm nói trên chưa bao giờ được công nhận bởi ủy ban hỗn hợp. Vì Ủy
ban này đã ngừng hoạt động trước khi bản đồ được thiết lập. Tòa cho rằng,
nguyên thủy, tấm bản đồ này không có tính bắt buộc. Nhưng trong hồ sơ phân
định, bộ bản đồ đã chuyển lên chính phủ Thái như là kết quả của công trình phân
định biên giới. Nhà cầm quyền Thái đã không có phản ứng nào (về các tấm bản đồ
này) từ thời kỳ đó, cũng không có phản ứng nào trong nhiều năm sau. Do đó phải
kết luận rằng nó đã được sự chấp nhận chính phủ Thái. Nếu phía Thái đã chấp
nhận tấm bản đồ đính kèm mà không làm các cuộc nghiên cứu, thì bây giờ họ không
thể vịn vào lỗi lầm này để làm vô hiệu điều mà họ đã chấp thuận.
Nhà
nước Xiêm, sau đó là Thái Lan, chưa bao giờ đặt vấn đề về bản đồ đính kèm trước
năm 1958, là lúc hai bên Thái và Cambodge đã mở những cuộc thuơng thảo về chủ
quyền ngôi đền. Trong khi đó, vào các năm 1934-1934, một cuộc trắc địa đã cho
thấy có sự khác biệt giữa đường phân thủy trên thực tế và đồ tuyến biên giới
trên bản đồ. Một số bản đồ khác đã được thiết lập, trong đó đặt ngôi đền thuộc
lãnh thổ Thái Lan. Nhưng phía Thái Lan vẫn tiếp tục sử dụng, thậm chí in ra,
những tấm bản đồ theo đó ngôi đền Preah Vihear thuộc về phía Cambodge. Mặt
khác, trong khoảng thời gian thuơng thuyết về hiệp ước Pháp-Xiêm 1925 và 1937,
mà các hiệp ước này khẳng định hiệu lực của đường biên giới. Hay là vào năm
1947, trước ủy ban hòa giải Pháp-Xiêm tại Washington, đáng lẽ phía Thái đã đặt
lại vấn đề chủ quyền ngôi đền, thì họ đã không làm gì cả.
Kết
luận lại, như thế Thái Lan đã chấp nhận đường biên giới như đã vẽ trong bản đồ,
cho dầu nó có phù hợp hay không phù hợp với đường phân thủy của rặng Dangrek.
Vì
vậy, Tòa cho rằng, trong vùng tranh chấp, đường biên giới là đường xác định
trên bản đồ và sẽ không cần thiết để tìm hiểu là đường biên giới này có phù hợp
với đường phân thủy hay không.
Trở lại trường hợp
VN.
Ở đây ta thử so sánh thái độ của nhà nước Thái về chủ quyền ngôi đền Preah
Vihear đã được tòa CIJ phân tích ở trên với thái độ của nhà nước VNDCCH (và các
nhà nước kế thừa) về chủ quyền của hai quần đảo HS và TS.
Ta thấy nhà nước VNDCCH đã mặc nhiên
đồng thuận chủ quyền của TQ tại hai quần đảo HS và TS qua các động thái :
1/
Tuyên bố đơn phương qua công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Tuyên bố này ủng hộ
« tuyên bố về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc », trong đó mặc nhiên
nhìn nhận việc « ủng hộ » hải phận 12 hải lý của các đảo thuộc HS và
TS. Tức mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền HS và TS thuộc TQ.
2/
Các bài báo trên Nhân Dân khẳng định chủ quyền của TQ tại HS và TS. Các bản đồ
của các cơ quan trực thuộc nhà nước VNDCCH (như hai tấm bản đồ dẫn trên) xác
định chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Trên
phương diện pháp lý, các bài báo trên Nhân Dân hay các bản đồ của Bộ Tổng tư
lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam hay của Cục Bản đồ của Việt Nam đều không có
giá trị pháp lý. Nhưng ở đây chúng có giá trị của « tài liệu –
information » nhằm làm sáng tỏ nội dung tuyên bố đơn phương 1958 của Phạm
Văn Đồng. Đối với công pháp quốc tế, các tuyên bố đơn phương có giá trị ràng
buộc.
Mặt khác, nhà nước VNDCCH đã « im
lặng » trước tuyên bố « chủ quyền không thể tranh cãi của TQ tại
HS » vào tháng giêng năm 1974, vài ngày trước khi dùng vũ lực xâm lăng
Hoàng Sa.
Nhà nước
VNDCCH cũng im lặng sau đó khi TQ dùng vũ lực xâm chiếm HS. Theo thông lệ quốc tế, hành động (xâm lăng HS của
TQ) đòi hỏi hai miền VN phải có một thái độ. VNCH đã lần lượt biểu lộ nhiều
động thái quan trọng nhằm phản đối hành động của TQ đồng thời khẳng định chủ
quyền của VN tại HS trước các diễn đàn quốc tế. Thái độ im lặng
của nhà nước VNDCCH có thể so sánh với sự « im lặng » lâu dài của nhà
nước Thái về tấm bản đồ vẽ sai. Đó là sự im lặng « mặc nhiên đồng
thuận ».
Ta thấy vấn đề chủ quyền của VN tại HS và TS phức tạp và khó
khăn hơn trường hợp của Thái về ngôi đền Preah Vihear. CHXHCNVN, nhà nước kế
thừa của nhà nước VNDCCH, phải đối diện cùng lúc hai yếu tố pháp lý : 1/
tuyên bố đơn phương và 2/ mặc nhiên đồng thuận chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Chỉ cần
một trong hai yếu tố này đủ để VN mất chủ quyền tại HS và TS.
Bộ Luật Biển 2012 của VN vừa công bố xác nhận chủ quyền
của VN tại hai quần đảo HS và TS là một điều đúng và cần thiết. Bộ Luật này cũng
xác nhận hiệu lực hải phận các đảo của VN đúng theo tinh thần Luật Quốc tế về
Biển, cũng là một điều đúng và cần thiết. Đúng vì nó phù hợp với thực tế và
lịch sử. Cần thiết vì nó làm gạch nối cho thế hệ tương lai. Nhưng nó chỉ có
hiệu lực thực sự khi mà TQ từ bỏ chủ quyền ở HS và TS (qua một trọng tài phân
xử).
Với
một hồ sơ như thế người ta không ngạc nhiên khi nhà nước CSVN không dám đề nghị
đưa tranh chấp HS và TS ra trước một trọng tài phân giải. Trong khi đó, với
khả năng về quốc phòng đang lên, TQ có thể chiếm các đảo TS còn lại đang ở
trong tay VN đồng thời giành phần lớn thềm lục địa và vùng biển VN theo bản đồ
chữ U. Việc « ngư dân » TQ hiện nay một lúc 30 chiếc thuyền, cùng với
các tàu hộ vệ của hải quân TQ, đang hoành hành đánh bắt hải sản ở các đảo thuộc
TS làm người ta liên tưởng đến những ngày tháng giêng năm 1974, lúc sắp đánh
HS. Ở đây, trước khi đánh, « ngư dân » TQ đổ bộ lên các đảo. Khi hải
quân VNCH can thiệp thì hải quân TQ ra tay « bảo vệ ». Rất cỏ thể TQ
sẽ lập lại phương pháp cũ.
Lúc
đó, với một hồ sơ như thế, VN vô phương đòi lại TS (chứ đừng nói HS). Với sức
mạnh và nhiều tiền trong tay, TQ muốn hoạch định biển với VN thế nào lại không
được ?
Vấn đề vì thế, cấp bách, là phải làm các thủ tục để kế
thừa di sản VNCH để có một thế đứng chính thống trước quốc tế. Hiện nay chưa có
nước nào chính thức công nhận chủ quyền của VN tại HS và TS (kể cả Pháp). Với
một hồ sơ như thế thì ai mà công nhận ?
*
Xem thêm :
-
Tìm hiểu nguyên nhân mất đất Tụ Long vào
tay Trung Quốc qua các hiệp định Pháp-Thanh về biên giới 1887 và 1895 :
http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235436/index
-
Biên giới
tỉnh Hải Ninh. Nguyên nhân Việt Nam mất huyện Giang Bình và đất thuộc hai tổng
Kiến Duyên và Bát Tràng thuộc tỉnh Hải Ninh. http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235425/index
- Thử tìm hiểu tranh chấp Thái-Miên về ngôi
đền Preah Vihear : http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235391/index
-
Lịch sử tranh chấp chủ quyền « l’enclave Pak-lung » cùng các đảo Vạn
Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu trong vịnh Vạn Xuân :
http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235331/index
-
Tìm hiểu đường biên giới Việt-Trung: Lào Cai : http://blog.yahoo.com/_I66R5T4RFJ5LH5KE4IOX6IW264/articles/235329/index
--------------------------------------------
July 29, 2012 7:11 AM
Dư
luận VN hiện nay đang xôn xao về tấm bản đồ nước Trung Hoa xuất bản năm 1904,
dưới thời nhà Thanh, mang tên “Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ”. Bản đồ
này vẽ lãnh thổ của Trung Quốc năm 1904 không có các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Mọi người vui mừng cho rằng đó là một bằng chứng rõ rệt chứng minh
các quần đảo HS và TS không thuộc TQ.
Theo tôi, không có
điều gì chắc chắn để vui mừng hết. Giả sử phía TQ đưa ra các bản đồ sau
đây :
1/
Bản đồ thế giới do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam xuất bản năm
1960. "Trên bản đồ này, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) được đánh dấu là lãnh
thổ Trung Quốc."
2/
Cục Bản đồ của Việt Nam xuất bản tấm bản đồ năm 1972, trong đó quần đảo Nam Sa
được chú thích bằng tiếng Hoa, chứ không phải bằng tiếng Việt, tiếng Anh hay
tiếng Pháp."
Tài
liệu trên đây dẫn từ nguồn :
Nếu
hai tấm bản đồ này có thật, lúc đó phản ứng mọi người sẽ ra sao ? Không lẽ
bó tay chấp nhận HS và TS thuộc TQ ?
Điều may là các tấm bản đồ thường không có giá trị quyết
định trên quan điểm pháp lý.
Thật
vậy, theo thông lệ quốc tế, « bản đồ » tự nó thường không được nhìn
nhận như là một « bằng chứng », mà chỉ được xem như là một « tài
liệu », có tính bổ túc thêm cho hồ sơ, do đó nó không có tác động trực
tiếp đến quyết định của các quan tòa. Nhiều vụ án về tranh chấp lãnh thổ do Tòa
Án Công lý Quốc Tế (CIJ) phân xử, đa số các trường hợp các bản đồ được các bên
trưng dẫn thì không được xem như là « bằng chứng ». Yếu tố quyết định cho phán quyết
của tòa luôn là « thái độ » từ trước đến nay của nhà nước đối với
vùng lãnh thổ tranh chấp.
Nếu
không lầm, bản đồ 1904 của Trung Hoa, lãnh thổ nước này bao gồm nước Mông Cổ
hiện nay. Nếu ta đi ngược thời gian xa hơn, bản đồ nước Trung Hoa cũng không hề
chú dẫn hai quần đảo HS và TS, nhưng trong vài bản đồ lãnh thổ nước này bao gồm
nước VN.
----------------------------------------
July 27, 2012 6:39 AM
Chiến
sĩ hải quân VN cần thận trọng. Các tàu đánh cá của TQ hiện nay đang hoạt động
tại vùng biển Trường Sa thực ra không phải là ngư dân đúng nghĩa, mà là một
nhóm « dân quân ». Đoàn tàu của nhóm « dân quân » này
khoảng 30 chiếc, nói là đi đánh cá nhưng công tác của họ là lựa thời cơ thuận
tiện ùa vào chiếm đảo. Đi kèm đoàn tàu « dân quân » này dường như có
4 chiếc tàu khu trục cùng các tàu đổ bộ của TQ. Các đảo do VN và Phi đang chiếm
giữ hiện thời là điểm nhắm của nhóm dân quân này. Nhân danh có chủ quyền các
đảo, dân TQ có quyền lên đó sinh sống (và đuổi những người khác đi khỏi đảo).
Khi phía VN hay Phi nổ súng là lọt vào kế của TQ. TQ có thể tạo một sự kiện
« đã rồi », quốc tế không làm gì được, vì quá trễ.
dieu khac chan may
ReplyDeletedieu khac chan may nam
dieu khac chan may nu
điêu khắc chân mày
điêu khắc chân mày nam
điêu khắc chân mày nữ
dieu khac long may
điêu khắc lông mày
dieu khac long may nam
dieu khac long may nu