Thursday, 26 July 2012

NGHỊCH LÝ KINH TẾ TRUNG QUỐC & TRẬN ĐÁNH MỸ - HOA KHÔNG TIẾNG NỔ (Nguyễn Xuân Nghĩa)




Nguyễn-Xuân Nghĩa
Monday, July 23, 2012 7:57:39 PM

Trung Quốc có sản lượng kinh tế đứng hạng nhì thế giới, nhưng trong khoảng 200 quốc gia của địa cầu thì lợi tức đồng niên một người dân của họ chỉ ở cỡ trung bình, ngang hàng Namibia, Jamaica hay Macedonia. Dân nghèo nước mạnh?

Trong 500 doanh nghiệp lớn nhất thế giới của danh mục Forbes 2011, Trung Quốc có 73 công ty, còn nhiều hơn Nhật Bản (68), mà hầu hết là các tập đoàn nhà nước. Trong 20 doanh nghiệp có mức lời cao nhất của danh mục, Trung Quốc có bốn đơn vị, toàn là ngân hàng - mà là ngân hàng của nhà nước, trong khi tư doanh Trung Quốc phá sản hàng loạt. Nước giàu dân mạt?

Trong ba năm mà kinh tế toàn cầu bị tổng suy trầm, từ 2009 đến 2011, tổng số tín dụng ngân hàng tại Trung Quốc lên đến gần bốn ngàn tỷ Mỹ kim, 80% là trút vào các doanh nghiệp nhà nước. Cấp phát là một cách gọi về kế toán, trợ cấp là cách gọi về kinh tế, vì lãi suất tài trợ chỉ mấp mé số không. Nước chảy chỗ trũng?

Làm sao mà các ngân hàng của nhà nước - hiện kiểm soát 90% tài sản của hệ thống ngân hàng toàn quốc và tài trợ doanh nghiệp cũng của nhà nước với lãi suất cận âm nếu giảm trừ ảnh hưởng của lạm phát - lại có mức lời cao như vậy?

Xin chào mừng sự kỳ diệu kinh tế của Trung Quốc!

Nhìn từ Hoa Kỳ trong một năm tranh cử, các dân biểu nghị sĩ rất nhịp nhàng than phiền Bắc Kinh can thiệp vào hệ thống hối đoái và duy trì hối suất quá thấp của đồng Nguyên để cạnh tranh bất chính. Và làm dân Mỹ thất nghiệp vì việc làm đã bị “xuất cảng” qua Tàu.

Lý luận chính trị đượm mùi kinh tế của sự mị dân!

Chỉ vì, trong 10 năm mà tỷ giá đồng Nguyên so với Mỹ kim được định quá thấp, từ 1991 đến năm 2000, thất nghiệp tại Hoa Kỳ có giảm liên tục: Từ sáu, lên bảy rồi sụt tới 4%. Trong 10 năm sau đó, khi Bắc Kinh bị áp lực và phải nâng giá đồng bạc thì thất nghiệp tại Hoa Kỳ lại tăng vọt. Vì những nguyên nhân khác hơn là do hàng hóa quá rẻ của Trung Quốc tràn ngập vào thị trường Mỹ. Hàng quá rẻ của Trung Quốc bán qua Mỹ khiến giới tiêu thụ dư tiền mua được nhiều thứ khác, kể cả hàng Mỹ, nghĩa là vẫn có lợi cho kinh tế Hoa Kỳ. Vua nước Sở mất cái cung, người nước Sở được lời?

Kết hợp sự kỳ diệu kinh tế của Trung Quốc với lý luận mị dân của chính khách Hoa Kỳ, người ta nên nhìn ra một thực tế đầy nghịch lý của kinh tế cũng là chính trị.

***

Lãnh đạo Trung Quốc không trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước ở nhà để tìm lợi thế ngoại thương, như bán hàng rẻ hơn “thực giá” vào các thị trường Âu-Mỹ. Lý do trợ cấp thuộc vào loại “có thực với vực được đạo”: Không trợ cấp thì cả triệu doanh nghiệp sẽ phá sản.

Mà hình thái trợ cấp không chỉ có lãi suất rẻ hay hối suất thấp.

“Ðất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý” - cứ như người Hà Nội - nên nhà nước thống nhất giao cho doanh nghiệp nhà nước gần như miễn phí. Tư doanh cứ đứng chầu rìa, nếu cạnh tranh với quốc doanh thì còn bị xóa sổ. May lắm thì xin được một mẫu với rất nhiều hoạt liệu để bôi trơn bộ máy. Nói về hoạt liệu “lubrifiant” hay nguyên nhiên vật liệu, thì doanh nghiệp nhà nước cũng được trợ giá. Ðược cung cấp với giá rẻ hơn thực giá của thị trường.

Cả hệ thống kinh tế nhà nước Trung Quốc là cơ chế trợ cấp, qua luật lệ và phí tổn của mọi nhập lượng - đất đai, vật liệu, tiện ích, tín dụng, v.v... - để các doanh nghiệp nhà nước từ lớn đến nhỏ, ở cấp trung ương tới địa phương và hương trấn không thể phá sản. Phá sản hay khánh tận là số phận của dân đen.

Trên đỉnh là các đại gia góp mặt trong danh mục Forbes.

Lãnh đạo các cơ sở huy hoàng này là đảng viên cao cấp, do ban tổ chức trung ương bố trí. Họ xào bài đổi ghế chủ tịch tổng giám đốc lấy ghế thứ trưởng hay trợ lý để cùng bảo vệ một chế độ kinh tế gần như độc quyền, chế độ tư bản nhà nước.

Trong khi ấy, các chính khách Hoa Kỳ chỉ nhìn vào một góc của nghịch lý đó, là lợi thế xuất cảng của Trung Quốc. Nếu nhìn theo thế công, có lẽ người ta nên tìm hiểu về lợi thế xuất cảng của Mỹ. Khi ấy lại thấy ra nhiều nghịch lý khác.

Người ta thường nghĩ Hoa Kỳ có ưu thế kỹ thuật nên bán máy bay cho Trung Quốc và chở về các mặt hàng tiêu thụ hạ đẳng, như áo quần giày dép linh tinh mà dân Mỹ chẳng thèm làm nữa vì ít lời. Sự thật thì Mỹ có bán hàng công nghệ điện tử cho Trung Quốc nhưng lại nhập từ xứ này loại hàng tương tự trị giá gần gấp bảy. Và hai loại mũi nhọn xuất cảng của Hoa Kỳ vào Trung Quốc - trị giá cao nhất trong năm ngoái - là 1) hàng đồng nát và phế thải (11 tỷ rưỡi) và 2) đậu nành (10 tỷ rưỡi). Máy bay hay xe hơi của Mỹ chỉ chiếm tổng cộng là gần 12 tỷ đô la.

Xin ghi lại cho gọn: Ba mũi nhọn xuất cảng của Trung Quốc vào Mỹ là máy điện toán, thiết bị thông tin và linh kiện điện tử, với trị giá tổng cộng còn lớn hơn tổng số xuất cảng của Hoa Kỳ vào Trung Quốc.

Ðằng sau nghịch lý này là dàn phòng thủ của Trung Quốc: Quyền sở hữu trí tuệ hay tác quyền, “intellectual property rights”.

***

Lãnh đạo Trung Quốc không bảo vệ tác quyền của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, thực tế còn thi hành chế độ “đạo chích siêu cấp” - quốc hữu hóa thuật ăn cắp tác quyền của thiên hạ - và ráo riết thi hành các nghiệp vụ tình báo kỹ nghệ để thu hẹp khoảng cách lạc hậu với Hoa Kỳ về an ninh. Hoàn toàn hợp lý với chủ trương của họ là nhà nước phải ưu tiên lãnh đạo 18 ngành sản xuất chiến lược, trong đó có công nghệ điện tử, hàng không, thông tin, thiết bị sản xuất, và năng lượng.

Sau khi thủ rất kín như vậy, lãnh đạo Trung Quốc có thể tự tiện quyết định rằng một khu vực nào đó là “chiến lược” - nghĩa là ngoại quốc miễn được vào. Một khu vực vừa được đưa vào hàng rào phòng thủ chiến lược đó là công nghệ môi trường.

Những nghịch lý ấy trong quan hệ kinh tế Hoa-Mỹ (xin miễn gọi là Trung Mỹ!) thật ra xuất phát từ cả chục năm trước, khi chính quyền Bill Clinton chấp nhận cho Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO. Từ đó, cơ chế quốc tế WTO giải quyết các tranh chấp song phương, trong đó có nạn trợ cấp, lũng đoạn hối đoái hay ăn cắp tác quyền. Nhưng giải pháp WTO không thể gỡ nổi dụng ý bảo vệ của Trung Quốc và chỉ dẫn đến những vụ kiện cáo kéo dài.

Thực tế thì cơ chế WTO đã bị tê liệt và vòng đàm phán Doha khởi xướng từ tháng 10 năm 2001 vẫn giậm chân tại chỗ. Cũng vì thế mà Hoa Kỳ phải tìm giải pháp đa phương khác.

Ðó là các thỏa ước tự do ngoại thương cấp vùng với một số quốc gia thuộc hạng đối tác chiến lược. Trong hướng này, Hiệp Ước Ðối Tác Kinh Tế Chiến Lược Xuyên Thái Bình Dương TPP do chính quyền George W. Bush đề nghị tham gia và chính quyền Barack Obama quyết định xúc tiến sẽ có tác dụng thuyết phục cao hơn: Chủ điểm hợp tác là việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và Trung Quốc không nằm trong vòng đối tác chiến lược đó nếu vẫn duy trì chính sách cũ.

Cùng vành cung hợp tác về an ninh trong khu vực Ðông hải, Hiệp ước TPP này là một vòng đai khác.

Chúng ta thấy rằng quốc gia nào cũng có chủ trương bảo vệ quyền lợi của mình và trong luồng giao dịch kinh tế thì đấy là chủ trương bảo hộ mậu dịch hay protectionism. Trung Quốc là một đại gia của thuật bảo hộ này để thực tế là bảo vệ chế độ. Nếu Hoa Kỳ chỉ theo đuổi hồ sơ hối đoái với những tố tụng định kỳ về trị giá đồng Nguyên thì vẫn chỉ là múa quyền ở vòng ngoài.

Cho nên trận đánh về tác quyền và Hiệp Ước Xuyên Thái Bình Dương mới là chuyện thật, ở vòng trong, một trận đánh không gây tiếng nổ. Chúng ta nên theo dõi xem Quốc Hội Mỹ xử trí ra sao về hồ sơ đó.






No comments:

Post a Comment

View My Stats