Posted on July 6, 2012 by bacthan
Từ năm 1950 Sài Gòn có Nghiệp Ðoàn Ký Giả Nam Việt. Ðến
khoảng năm 1965 Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà có Nghiệp Ðoàn Ký Giả Việt Nam. Ký
giả Thanh Thương Hoàng, năm 1965 là nhân viên Nhật báo Chính Luận, là người chủ
xướng và chủ trương việc thành lập Nghiệp Ðoàn Ký Giả Việt Nam. Trong Ðại Hội
Ký Giả ViệtNam năm 1965, Ký giả Thanh Thương Hoàng được bầu làm Chủ Tịch Nghiệp
Ðoàn Ký Giả Việt Nam.
Tháng Ba năm 1976 Ký giả Thanh
Thương Hoàng bị bắt và bị tù khổ sai nhiều năm. Mời quí vị đọc bài Hồi Ký của
Thanh Thương Hoàng ghi lại cuộc tù đày và việc ông sang tị nạn ở Hoa Kỳ.
Thanh Thương
Hoàng
Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái trò bắt
người mà cộng sản gọi là “Chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”.
Chiến dịch X1 trước đó “đánh” tư sản mại bản (tức những
nhà tỷ phú người Việt và người Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn). Có 3 nhà tỷ phú
người Việt bị bắt là cụ Hoàng Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH), hai anh
em vua tầu thủy Phạm Quang Khai và Phạm Quang Hoa. Trước và sau tôi bị bắt vài
ngày có hơn trăm người gồm đủ bộ môn văn nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí,
Nhạc, Kịch, đạo diễn điện ảnh, đạo diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Ða số
giam ở T20 (Số 4 Phan Ðăng Lưu bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Ðịnh) vài người đi
khám Chí Hòa. Khoảng mười tháng sau một số lớn được tha về, chỉ còn mươi người
bị quy kết tội “có nợ máu nhân dân” và “chống cộng ở thượng tầng kiến trúc” bị
giữ lại. Ðây là những “tội” có thể đưa tới tử hình. Sau hai năm tra vấn hỏi
cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại Gia Trung (xứ sương mù Pleiku) nằm trong khu
rừng già, nghe nói trước đây là mật khu của Việt cộng, để lao động khổ sai.
Tưởng cũng nên kể ra đây tôi là người trong giới Văn nghệ đầu tiên, mới nhập
trại đã bị tống ngay vào “biệt giam” (cachot) khu B1, phòng 11 trại Phan Ðăng
Lưu. Có lẽ họ tưởng tôi là nhân vật quan trọng, là tay sai của CIA được dựng
lên làm Chủ tịch Nghiệp Ðoàn Ký Giả Việt Nam hoạt động trong báo giới. Vì ngoài
Bắc chức vụ này “to” lắm, do đảng đưa ra và quyền hạn cũng như quyền lợi ngang
bộ trưởng. Trong cùng dẫy
biệt giam khu B1 có những nhân vật tên tuổi như Thượng Tọa Thích Huyền Quang,
Thượng Tọa Thích Quảng Ðộ, Linh mục Ðỗ Bác Ái, Tiến sĩ Mai Văn Lễ (cựu Khoa
trưởng Khoa Luật Ðại học Huế), Luật sư Nguyễn Hữu Doãn, Luật sư Nguyễn Khắc
Chính, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Nhà báo Hồ Văn Ðồng, Nhà báo Như Phong Lê Văn
Tiến, Nhà văn Nhà báo (nguyên dân biểu) Hồ Hữu Tường. Những người này
lần lượt vào biệt giam sau tôi 1, 2 tuần. Ðầu dẫy khu biệt giam buồng số 1 là “Tướng phục quốc Nguyễn Việt Hưng”. Tôi rất tiếc khi đó không biết nhiều về
nhân vật này. Ông là người đầu tiên cầm đầu một số dăm bẩy người trấn trong nhà
thờ Vinh Sơn (đường Trần Quốc Toản) đánh CS với vài thứ vũ khí thô sơ, khi CS
vào Sài Gòn mới được mấy tháng. Sau đó ông bị CS xử bắn. Vụ “vùng lên” khởi đầu
chống đối CS này đã gây tiếng vang rộng lớn làm trấn động dư luận khắp nước khi
đó. CS phải điều động bộ đội công an cảnh sát vây hãm quanh khu vực Nhà Thờ
Vinh Sơn mấy ngày liền mới trấn áp được. Tôi nghĩ chúng ta thật vô tình khi ở
ngoài này, trải qua mấy chục năm, không thấy một ai nhắc nhở tới ông (người
được gọi là Tướng Nguyễn Việt Hưng mà dư luận khi đó đồn đãi là biệt danh của
Tướng NCK hoặc Tướng cảnh sát NNL ở trong mật khu lãnh đạo cuộc chiến đấu với
rất nhiều “hồ hởi phấn khởi”). Theo tôi
đây là người chiến sĩ quốc gia can trường bất khuất, dám đứng ra chống CS ngay
từ ngày đầu, chúng ta nên tỏ bầy lòng ngưỡng mộ và khâm phục.
Phía sau dẫy biệt giam B1 là dẫy biệt giam B2 có giáo sư Vũ Quốc Thông,
ông chủ nhiệm nhật báo Lẽ Sống Mới Ngô Công Minh (vào đầu năm 1975 làm phụ tá Tổng Trưởng Thông
Tin), ông Tống Ðình Bắc,
Trưởng ty Công an nổi tiếng sát Cộng Miền Tây, ông chủ Nhà sách Khai Trí và một vài người nữa
từng giữ chức vụ cao trong chế độ cũ. Riêng ông Ngô Công Minh sau khi lên trại tù lao
động Gia Trung với chúng tôi hơn tháng thì CS đưa ông đi nơi khác. Từ đó không
ai biết tin tức về ông. Có dư luận nói ông bị đem thủ tiêu vì mấy tay tổ văn
nghệ, báo chí CS (từng quen biết ông trước kia) muốn cướp không ngôi nhà lớn
của ông ở Sài Gòn và vàng bạc của cải của ông. Theo tôi, ông Ngô Công Minh
không phải nhà hoạt động chánh trị, ông chỉ là nhà báo thuần tuý nên ông không
thể bị sát hại vì lý do chánh trị. Khi ở tù về tôi có dò hỏi tin tức ông nhưng
không ai biết một cách chính xác.
Trong thời gian “nằm” biệt giam tôi cũng có vài việc để
nhớ xin kể ra đây. Cứ mỗi tháng tù biệt giam được cho ra ngoài cắt tóc. Bọn
“thế nhân” chúng tôi tất cả đều bị “gọt” trọc đầu, kể cả vị Linh mục, nhưng với
hai vị Thượng Tọa Thích Huyền Quang và Thích Quảng Ðộ thì cai tù lại bắt để
tóc. Hai cụ phản đối, cai tù thản nhiên: “Ðó là chính sách Nhà nước!”. Việc thứ
hai là vì biệt giam mới làm chưa lắp ống dẫn nước nên mỗi ngày chúng tôi chỉ
được từ hai tới ba phút vòi nước ở ngoài thọc vào để làm vệ sinh. Ngày đầu tôi
không biết nên thản nhiên chà xà bông gội đầu (bằng xà bông giặt). Ðang làm nửa
chừng vòi nước rút ra mặc cho tôi nài nỉ. Báo hại đêm đó đầu tôi bị xà bông làm
ngứa ngáy khó chịu không tài nào nhắm mắt ngủ yên được. Cũng vì “nước” tôi phải
tự “tranh đấu” với mình mãi mới nuốt xong phần cơm tù. Tôi chỉ có 2 cái tô
nhựa: một dùng đựng cơm, một dùng đựng canh. Vì phải chứa nước làm vệ sinh (khi
đi cầu) tôi nhịn tắm lấy nước chứa vào cái tô lớn mầu xanh. Trong khi đi “làm
việc” (hỏi cung) tôi viết mấy chữ bằng bút chì dặn anh tù hành sự để cơm vào
nửa tờ giấy báo cũ, còn canh để vào tô nhựa mầu đỏ. Nhưng anh ta đổ hết nước
trữ đi, để cơm canh vào 2 cái tô và đặt ngay trên bệ cầu tiêu chưa được dội
nước còn nồng nặc mùi phân của mình. Tôi ngồi hơn nửa tiếng đồng hồ nhìn hai tô
cơm canh muốn ứa nước mắt tự “tranh đấu” với mình. Ăn hay nhịn? Nếu ăn, khó
nuốt trôi miếng cơm vì tởm lợm. Nhưng nếu không ăn sẽ bị đói tới trưa hôm sau.
Tôi lại mắc chứng đau dạ dầy từ ngày CS chiếm Sài Gòn nên sẽ khốn khổ lắm. Cuối
cùng tôi đành nhắm mắt nuốt vội chút cơm canh lạnh ngắt với hai hàng nước mắt.
Tôi bị nhốt biệt giam hơn 10 tháng, vào một buổi sáng
trời âm u, được gọi tên mang đồ ra khỏi buồng giam. Phía chéo buồng giam, tôi
liếc nhìn thấy Nhà văn
Duyên Anh để mặt sát ô vuông cánh cửa sắt phòng giam tập thể hướng về
phía tôi nói khá lớn: “Nhớ ghé nhà tao nói với vợ tao…”. Tôi chỉ nghe được tới
đây thì bị viên cai tù nạt nộ cấm nói. Thì ra Duyên Anh tưởng tôi được tha về
nhờ tôi tới nhà nhắn tin anh cho vợ anh.
Khi đi đến trước sân “nhà khách”trại giam tôi thấy vài
người quen ngồi đó với đồ đạc cá nhân lỉnh kỉnh. Chúng tôi chỉ đưa mắt chào
nhau. Mấy phút sau họ điểm danh từng người xong còng tay lại đưa lên chiếc xe
hơi bít bùng chuyển về cơ quan An ninh nội chính (Nha Công an thành phố Sa Gòn
cũ đường Trần Hưng Ðạo). Cùng trên chuyến xe có tiến sĩ Mai Văn Lễ, thạc sĩ Vũ Quốc Thông, ông Tống Ðình
Bắc và một vài người nữa (giờ tôi quên mất tên). Trong lúc ngồi ngoài
sân cơ quan chờ làm thủ tục gì đó, các bạn tù của tôi bàn cãi sôi nổi về dự
đoán chúng tôi được đưa lên đây làm giấy tờ tha. Có vị còn “cá” một chầu ăn
uống linh đình ở Chợ Lớn. Rồi lần lượt từng người được gọi tên đem hành lý đi
vào phòng…biệt giam! Tôi được gọi tên sau chót (may mắn cho tôi vì biệt giam
hết chỗ(?) – viên công an tiếp nhận tù nói vậy) nên được nhốt vào khu tập thể A
(làm từ thời Pháp). Gần 100 người đủ thành phần già trẻ lớn bé, tư sản, chính
trị gia, Linh mục, Mục sư, Thượng tọa, Ðại đức, trộm cắp, buôn lậu, nhốt chung
trong một phòng dài trên 10 mét, bề ngang nhỏ hẹp, u tối, ẩm ướt, thiếu ánh
sáng và khí trời. Phòng có 2 “sàn”, sàn trên cao khoảng một mét. Mỗi người được
cấp manh chiếu rách cáu bẩn, nồng nặc mùi chua mồ hôi người tích tụ lâu năm đã
kết thành “cao”. Ở trên tôi nói may mắn không phải vào lại biệt giam vì mấy
tháng sau anh Mai Văn Lễ được thả khỏi biệt giam vào phòng tôi kể cho nghe thảm
cảnh trong buồng biệt giam anh đã “chết trong cõi sống” mấy tháng qua. Buồng
biệt giam Sở An ninh nội chính được xây từ thời Pháp thuộc có tuổi đời trên mấy
chục năm. Tường bẩn thỉu lam nham dầy cáu bẩn đen đúa, sàn xi măng ẩm ướt quanh
năm. Mùi mồ hôi, mùi phân nước tiểu người tích tụ bao năm tạo thành một thứ mùi
hôi hám khó tả, ngửi phải muốn nôn ọe ngay. Khủng khiếp nhất là cái cầu tiêu đã
nứt nẻ và vỡ nhiều mảnh, mỗi khi trời mưa nước từ trong lỗ cầu dâng lên tràn
lan khắp buồng với những cục phân chưa tiêu hủy. Nếu mưa lâu khoảng một giờ
nước cầu tiêu dâng ngập buồng giam hơn gang tay, tù chỉ còn biết đứng dựa vào
tường chờ cho nước rút hoặc ngủ đứng. Và khi nước vừa rút hết, sàn si măng còn
ẩm ướt, tù mới ngả lưng nằm thì một hai chú chuột cống khá to, lông lởm chởm
ghẻ lở khắp mình trông dơ dáy khủng khiếp chui lên từ miệng cầu, thản nhiên gặm
bàn chân tù, đạp đuổi nó cũng cứ gan lỳ không chạy! Có lẽ từ lâu nó sống bằng
xương thịt tù bị chết chưa kịp mang đi.
Anh Mai Văn Lễ kết
luận:
“Ðúng là tầng chót địa ngục trần gian, có một không hai
trên thế giới!” Tôi được biết Linh mục Hoàng Quỳnh, người lãnh đạo giáo dân khu Bùi Chu Phát
Diệm nổi tiếng chống CS bằng vũ lực hồi còn ngoài miền Bắc trước năm 1954. Linh
mục bị bắt từ ngày đầu tháng 5. 1975, bị giam và chết trong “tầng chót địa ngục
trần gian” này. Khi họ đem xác Linh mục đi trên cái băng ca, thân thể ông teo
tóp gầy đét bé nhỏ như đưá trẻ lên 10.
Sau hai ngày đêm 15 chiếc xe vận tải lớn, trước đây dùng
chở heo, chở mấy trăm tù ngồi bó gối trên sàn xe chật cứng nhúch nhích cánh tay
cũng không được. Với bao gian khổ đói khát trên con đường dài mệt lả người,
chập choạng tối chúng tôi tới trại tù lao động cải tạo Gia Trung (thuộc tỉnh
Pleiku) nằm trong khu rừng núi hoang vu. Nghe nói nơi này khi trước là mật khu
của CS. Trại Gia Trung lúc bọn tôi tới đã có 3 trại giam, mỗi trại cách nhau
khoảng cây số. Trại nào cũng đầy nhóc người: từ 700 tới 1000 tù. Tù đa số là
các viên chức cấp nhỏ, địa phương quân, nhân dân tự vệ và đông nhất vẫn là tù
hành sự từ các nơi đưa tới, có án hoặc chưa có án. Có cả tù chưa đến 10 tuổi,
đói quá liều ăn tô bún riêu ở chợ không tiền trả bỏ chạy bị bắt.
Những nỗi đói khổ nhục nhã, sống cuộc đời trung cổ, sách
báo đã nói nhiều từ hơn 30 năm, tôi xin miễn kể ra đây. Sự khổ sở nhục nhã
chúng tôi còn có thể chịu đựng được. Nhưng cái khủng khiếp nhất đối với chúng
tôi là sự vô vọng ngày trở về đoàn tụ với gia đình, với đời sống ngoài xã hội.
Bọn cai tù bắt chúng tôi “học tập” chính sách Nhà nước là đem vợ con lên vùng
đất tù đầy này cuốc đất trồng khoai sinh sống (như ngoài Bắc đã thực hiện).Tất
nhiên chúng tôi không thể làm theo họ. Chúng tôi sẵn sàng hy sinh đời mình chứ
không thể để vợ con đã khốn khổ phải gánh thêm tội.
Trong những năm tháng không tên dài dằng dặc như bao thế
kỷ sống như cây cỏ như súc vật, chúng tôi hết cả hy vọng hết cả chờ mong thì có
những tin tức như những làn gió mát mang theo hơi sống tới: tin đồn về chương
trình HO, người Mỹ sẽ cứu chúng tôi đem sang Mỹ. Trong thời gian này các con
tôi gửi thư cho tôi nói bóng nói gió là hai hội Văn Bút Quốc Tế và Việt Nam
đang ráo riết can thiệp vận động cho anh em cầm bút chúng tôi. Và các con tôi
cũng báo tin có nhận được “quà” của hai hội gửi. Thời gian này bọn tù chúng tôi
“hồ hởi phấn khởi” lắm. Chỗ nào cũng bàn tán về chương trình HO (mỗi người tán
một kiểu toàn có lợi cho mình) với bao hy vọng tốt đẹp. Và chúng tôi cũng hết
lời ca ngợi Tổng Thống Carter – vị ân nhân vĩ đại – sẽ lập cầu Không vận đưa
chúng tôi từ VN qua Mỹ sống một đời ấm no tự do tươi sáng. Tôi cũng nghe nói
tới tên một bà lúc ấy còn rất xa lạ với chúng tôi: bà Khúc Minh Thơ. Biết bao giai thoại đồn
đại thêu dệt về bà được dựng lên. Qua câu chuyện và lời bình luận của anh em
tù, tôi có cảm tưởng bà Khúc Minh Thơ như một bà tiên đang cầm cây đũa thần
giúp chúng tôi từ vực thẳm lên.
Rồi ngày tháng tiếp tục lặng lẽ trôi qua, tất cả mọi việc
vẫn như cũ không có biến chuyển gì xẩy ra, chúng tôi lại tiếp tục buồn nản thất
vọng lê cái thân tù đầy mòn mỏi héo hắt trong quốc nạn khổ sai. “Mong nhưng
không đợi không chờ” như câu thơ của Giáo sư Vũ Quốc Thông làm và đọc cho tôi
nghe.
Sau gần 10 năm
thân thể rã rời hư hao chỉ cỏn bộ da bọc xương, tinh thần suy sụp chán nản
chẳng còn gì để mong để chờ và cũng hết cả “cú” tha bất ngờ thì anh Doãn Quốc
Sỹ được gọi tên tha, năm sau anh Hồ Văn Ðồng rồi thời gian sau nữa là giáo sư
Vũ Quốc Thông. Những người này được tha về làm sự hy vọng tưởng tắt ngấm trong
chúng tôi lại lóe lên, dù là ở cuối đường hầm mù mịt.
Có lẽ do nguồn từ gia đình ký giả Cao Sơn lên thăm nuôi
nói đài VOA vừa loan tin tôi và họa sĩ CHÓE (Nguyễn Hải Chí) hiện bị giam tù ở
trại Gia Trung, Pleiku. Thế là ầm cả trại đến nỗi viên quản giáo đội tôi cũng
tò mò hỏi anh tù nấu nước có biết tôi không và hiện ở đội nào (vì đài VOA chỉ
loan bút hiệu của tôi nên anh ta không biết). Báo hại tôi từ khi có tin này
không được tự động đi gánh phân người từ trại ra ngoài đồng nữa. phải về đội
cuốc đất chặt cây đào mương như mọi anh em tù khác. Gánh phân tuy có vất vả bẩn
thỉu hôi hám mất vệ sinh thật nhưng chỉ nửa buổi là “thanh toán” xong các hố
xí. Thời gian còn lại thoải mái xuống suối tắm giặt và đi “va tạt linh tinh”
kiếm củ khoai mì hay vài cọng rau lang “cải thiện”cho “ấm” cái bụng thường trực
rỗng. Nếu tôi nói đã hơn một lần “tự động” ăn …phân người, có lẽ nhiều người
không tin cho là tôi nói quá để kể khổ thân phận tù đầy dưới chế độ cộng sản.
Lần thứ nhất quãng hơn 10 giờ, tôi vừa đói vừa khát ghé vào chỗ chòi đun nước
uống của đội để uống nước. Anh bạn được phân công đun nước, nguyên đại úy cảnh
sát quốc gia, vốn quý mến tôi, thấy tôi đến, anh mắt nhìn chỗ khác nhưng miệng
nói nhỏ: “ Bác đi tới phía bụi cây bên trái”. Tôi biết là “có gì” rồi. Tới nơi
nhìn vào trong bụi cây tôi thấy nửa trái dưa chuột nhỏ. Tôi cầm lên bỏ vào
miệng nhai liền. Có lẽ trong đời tôi chưa bao giờ ăn trái dưa chuột ngon đến
thế (tôi vốn không thích ăn dưa chuột). Vừa nuốt xong nửa phần dưa chuột tôi
chợt nhớ ra, ngừng nhai, tiến lại chỗ anh bạn đun nước, nói: “Này ông ơi, có
phải trái dưa này “tẩm” phân người?”. Anh bạn gắt nhẹ: “Ðã bảo, bác cứ ăn đi,
không chết đâu mà sợ!”. Nghe anh bạn nói, tôi biết mình đã lỡ ăn rồi (hơn nữa
cũng tại đói) nên tiếp tục cố nhai và nuốt nốt phần dưa chuột còn lại. Nguyên
do thế này. Trong vườn ươm giống của đội trồng rau có một dàn dưa chuột. Khi
dưa mới kết trái to hơn ngón tay đã bị tù (và cả cai tù) hái trộm ăn hết nên
ban giám thị trại tù ra lệnh lấy phân tươi của người hòa với nước rồi hàng ngày
quết vào những trái dưa chuột cho hết bị trộm. Nhưng tù vẫn hái trộm ăn sau khi
rửa sơ qua. Thế là lần thứ nhất tôi ăn phân người. Lần thứ hai thì chính do tôi
(và mấy ông bạn) chủ động ăn phân người. Tôi và mấy “đồng sự” được “bố trí” dọn
phân cầu tiêu các phòng giam. Một số anh em tù hình sự ra ngoài đồng làm việc
đã hái và ăn tươi nuốt sống các trái bắp. Vì ăn trộm nên không kịp nhai (sợ cai
tù thấy) các bạn tù hình sự cứ thế mà nuốt. Bắp già hạt cứng dạ dầy không tiêu
nổi, hôm sau đi cầu ra nguyên cả hạt. Chúng tôi lúc đầu còn sợ bẩn sợ hôi và
bệnh nhưng sau khi sôi nổi “bàn thảo”, chúng tôi đi tới việc lấy những hạt bắp
này đem ra suối rửa, luộc hai ba lần cho hết mùi hôi rồi ăn một cách ngon lành
thoải mái! Nhiều bạn tù biết chuyện cũng xin ăn ké. Tôi được “ấm bụng” ít ngày
thì bị “ngưng công tác” (vì tin đài VOA loan?). Ðó là hai dấu ấn khủng khiếp
trong trại tù cho tới ngày hôm nay, mỗi khi nghĩ tới tôi vẫn không khỏi rùng
mình tự hỏi không hiểu sao mình lại có thể “ghê gớm” đến thế!.
Ðầu năm 1985 tôi bất thần được gọi
tên tha về cùng một số anh em quân nhân. Ngoài tôi không có thêm tên anh bạn văn nghệ sĩ nào. Các anh mừng cho tôi
thì ít, lo lắng chán nản thất vọng cho mình thì nhiều. Viên quản giáo trở nên
tử tế với tôi, gã chạy vào phòng nói: “Mừng cho anh nhé. Có thuốc men gì cho tớ
xin.”. Tôi cho gã mấy viên thuốc cảm, gã đòi lấy hết nhưng tôi không cho để cho
anh em tù nghèo không thăm nuôi.
Trại tù phát cho chúng tôi 50 đồng tiền đi xe, trong khi
giá xe về Saigon 150 đồng. Ði bộ từ trại tù ra tới quốc lộ 25 gần 5 cây số.
Chúng tôi phải nài nỉ mãi bà chủ xe đò mới “thông cảm” lấy 50 đồng. Xe đầy nhóc
người ì ạch chạy như rùa bò trên con đường vòng vèo dốc núi cheo leo đầy bất
trắc, nguy hiểm. Tôi và ba anh tù đi cùng chuyến xe không một đồng bạc dính
túi, phải nhịn đói nhịn khát hai ngày đêm liền cho tới khi về tới nhà ở Sài
Gòn. Một anh có “sáng kiến” đem bộ quần áo tù mới tinh được trại tù phát khi
tha, gạ bán cho mấy người trên xe để lấy tiền ăn, nhưng đều bị từ chối vì ai
cũng sợ xui khi mặc đồ tù.
Rời nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn sống mấy năm thì “phong trào
HO” nở rộ và tên tuổi bà Khúc Minh Thơ được anh em tù về hết lời ca ngợi công
đức. Bà là ân nhân của tù cải tạo. Tôi vì nghèo, tiền ăn không có lấy đâu ra
vàng đút lót hối lộ để được đi HO. Nhưng nghe theo lời các bạn đồng nghiệp cũ
may mắn thoát sang Mỹ trước, viết thư về khuyên tôi cứ đến đường Nguyễn Du nộp
đơn kèm theo những giấy tờ can thiệp (từ trước tới nay) của các tổ chức như Hội
Văn Bút Quốc Tế, Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Liên Ðoàn Ký Giả Quốc Tế, Hội
Nhân Quyền vv… Nhưng tất cả đều vô vọng. Lần nào cũng vậy, hai lần, tôi “ôm” hồ
sơ xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ đường Nguyễn Du đều được các viên chức hữu
quyền (công an CS) trả lời dứt khoát:
“Nhà Nước không có chính sách cho
những người tù như anh xuất cảnh. Bọn lính cũ không có súng ống đâu còn đánh
được chúng tôi nhưng với bọn anh chỉ một cây viết vẫn có thể chống phá chúng
tôi như các anh đã làm trước đây. Anh nên biết bên đó bọn báo chí phản động
nhiều như nấm”.
Thế là con đường sống bị triệt. Hết hy vọng, hết chờ
mong. Tôi đành sống kiếp mạt rệp – một thứ công dân hạng bét – ngay trên quê
hương đất nước mình. Nhưng tới cuối năm 1989 tôi được anh bạn Nhà Văn Hoàng Hải
Thủy từ Mỹ gửi thư về báo cho biết tôi và Nhà văn Uyên Thao
được bà Khúc Minh Thơ, Chủ tịch Hội Bảo Vệ Gia Ðình Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt
Nam tận tình can thiệp với Bộ Ngoại Giao Mỹ để chúng tôi được sang Mỹ định cư.
Chính Hoàng Hải Thủy sốt sắng giới thiệu hai chúng tôi với bà Khúc Minh Thơ và
cộng tác mật thiết với bà trong công việc vận động cho tôi được ODP nhận cho
sang Mỹ tị nạn. Con đường hy vọng, con đường sống, lại mở rộng trước mắt tôi.
Buổi tối ngày 18 tháng 5 năm 1999 tôi lên máy bay giã
biệt quê hương tăm tối sang Mỹ định cư. Tôi lại được sống dưới bầu trời tự do
dân chủ như tại Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Tuy nhiên nhiều đêm tôi vẫn
giật mình thức giấc vì những ám ảnh não nề của những năm tháng tù đầy.
THANH THƯƠNG HOÀNG
CTHÐ: Luật Tỵ Nạn HO của Hoa Kỳ chỉ đón nhận những viên chức
chính quyền Quốc Gia VNCH và những sĩ quan Quân Lực VNCH bị Cộng Sản bắt đi tù
khổ sai trên 3 năm. Những người bị CS giam tù cả 10 năm như Ký giả Thanh Thương
Hoàng không được ODP nhận cho sang Hoa Kỳ.
Tôi nhờ bà Khúc Minh Thơ lo cho Thanh Thương Hoàng và
Uyên Thao được hưởng quyền tị nạn chính trị. Bà Khúc Minh Thơ sốt sắng nhận lời
giúp. Chúng tôi: Thanh Thương Hoàng, Uyên
Thao, Hoàng Hải Thủy chân thành cám ơn Bà.
Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích. Ngày 26 Tháng
Sáu, 2012.
No comments:
Post a Comment