Việt Nguyên
Monday,
July 09, 2012 3:56:38 PM
Bút
ký Mùa Hè
Vài
kỷ niệm về trường Y khoa Sàigòn
Father's Day! Một ngày Father's Day lại đến khiến tôi nhớ lại
ngày Father's Day 5 năm trước, khi các bạn học cũ Chu Văn An cùng lớp một ngày
đến Houston gây cảm hứng cho tôi viết bài “Cha tôi và những Mùa Hè năm tháng
cũ” với câu kết: “Nếu cha tôi còn sống chắc ông lại rầy rà với cặp mắt nghiêm
khắc như ngày tôi 18 tuổi: Mày không đi ngủ sau mấy đêm làm việc chỉ thích viết
lách!”
Câu
kết luận ấy đúng cho cả hai ông bố, ba tôi và ông bố vợ. Bài tùy bút ấy đã viết
trong một Mùa Hè với cảm hứng 51 năm trước, cậu bé 11 tuổi với bài luận văn thi
vào đệ thất trường Trần Lục “Mùa Hè năm nay em sẽ lên núi hay xuống biển?” 51
năm sau, cậu bé ấy qua bao nhiêu năm sống trong đời không thấy câu hỏi nào có
một câu trả lời giản dị!
Mùa
Hè năm nay, với tôi, bắt đầu vào một ngày cuối tháng 5, một ngày cuối tuần
xuống Galveston, thành phố phía Nam Houston ở vùng vịnh Mễ Tây Cơ, với căn nhà
đã hơn 24 năm mang nhiều kỷ niệm. Thành phố hồi phục sau trận bão Ike 4 năm
trước, nhộn nhịp, đông người trên đường phố và bãi biển dọc trên đại lộ
Seawall. Con người đã dễ quên sau những cơn bão tàn phá khắp thành phố. Căn nhà
của tôi vẫn còn đó sau nhiều cơn bão, nhưng đã vắng bóng những người đã đến và
yêu căn nhà ấy hơn chính tôi. Căn nhà đã vắng những tiếng ồn ào của đám trẻ con
cuối tuần xuống đùa với sóng và nước. Ngày còn trẻ, đến nhà, ra tắm nắng và tắm
biển, đêm đi dọc trên bãi, đạp trên nước lấp lánh ánh lân tinh và những con sò,
đêm nằm nhớ những kỷ niệm Mùa Hè ở Việt Nam và bạn bè. Ðêm Hè năm nay, tôi nhớ
những tiếng nói tiếng cười năm xưa và bỗng thấy ra biển chỉ để nhìn những cơn
sóng, nghe tiếng sóng trò chuyện hàng giờ tưởng như chính mình đã chuyện trò
với bạn bè đã đến đây nhiều đêm, nằm ngủ quên ngoài sân thượng, nhìn ra biển
với tiếng gió, tiếng sóng vỗ về và không muốn quay về lại thành phố Houston của
những ngày hè oi ả.
Một
tuần sau từ biển tôi đi lên xa hơn núi, đến thành phố Montréal, Gia Nã Ðại
(thành phố núi Royal, Mont Royal nói trại thành Montréal). Thành phố đã đem đến
hạnh phúc cho tôi trong nhiều Mùa Hè. Thành phố không thay đổi nhiều so với lần
cuối tôi đến 5 năm trước, cũng một thành phố “xứ lạnh tình nồng,” cũng Montréal
của một ngày Mùa Hè năm 1983 khi tôi lái xe từ Cleveland, Ohio qua New York đến
Montréal qua cầu Jacques Cartier thăm thầy tôi, giáo sư Y khoa Ðào Ðức Hoành.
Năm
năm rồi chúng tôi mới đi dạo lại trên đường phố Montréal, thành phố với những
quán cà phê bên đường như Paris. 5 năm tưởng như đã quên những kỷ niệm cũ ở
thành phố quen thuộc nửa Paris nửa New York nhưng mùi cà phê từ trong những
quán hay ở nhà những người bạn đã đánh thức những kỷ niệm xưa như mùi cà phê
với chiếc bánh Madeleine chấm sữa buổi sáng điểm tâm trong quán trọ đánh thức
Marcel Proust về với quá khứ trong “à la recherche du temps perdu”. Và tình cờ,
một buổi chiều đi thăm vườn hồng ở phố Mont Royal với vợ chồng Bác Sĩ Nguyễn
Lương Tuyền, chúng tôi trở lại phòng họp nhỏ của thành phố, 5 năm trước, nơi
họp của các bạn trong gia đình Trưng Vương của vợ tôi, với những giọt nước mắt
hạnh ngộ trong tình thầy trò. Ngôi trường với câu thơ nổi tiếng của Nguyên Sa
“Áo nàng xanh anh mến lá sân trường”, ngôi trường năm tôi 18 tuổi bước vào với
các cô “hư quá, sao mà kiêu” với các thầy cô mặt khó đăm đăm. Các thầy cô năm
nay đã lớn tuổi, tên tuổi một thời nổi tiếng trong ngành giáo dục, Nguyễn Văn
Phú, Nguyễn Tá, Ðào Ðức Hoàng, bà tổng giám thị Nguyệt Minh nay tay cầm gậy
nhưng tâm hồn vẫn trẻ trung. Các cô học trò sao mà kiêu ngày xưa nay gặp nhau
nói nhiều, nói ríu rít như chim. Các thầy cô một thời nổi tiếng khắt khe nay
bỗng nhiên hiền khi nói chuyện với học trò. Thời gian đã làm các thầy cô thay
đổi hay cậu rể nổi tiếng phá phách đã thay đổi thầy cô? Lại thêm một câu hỏi
không có câu trả lời đơn giản!
Mười
ngày ở Montréal, một thành phố nhỏ êm đềm, bạn bè ở gần nhau khiến tôi có khi
quên hẳn Houston một thành phố lớn luôn luôn thay đổi, 10 ngày quên hết tất cả
những biến cố chính trị đang xảy ra mặc dù có những cuộc biểu tình nhỏ chống
tăng học phí trên phố. 10 ngày gặp lại bạn Y khoa đồng khóa đầy những kỷ niệm
thời đi học. Những người bạn thân thiết gặp nhau gác chuyện đời ngoài tai. Từ
khu vườn nhà bạn tôi Bích Hằng với những cây phong, cây thông Gia Nã Ðại ngàn
năm xanh mãi với hàng rào nghiêng đằng sau vườn không thay đổi như hai ông bà
chủ nhà đến căn nhà mới của Kim Nhi qua những xa lộ nhỏ khoảng cách ngắn đủ cho
tôi cái ảo tưởng bóng thời gian 44 năm qua từ ngày đầu tiên ở trường Y khoa Ðại
Học Sàigòn là một thời gian rất ngắn. Những Mã Ngọc Phương, Thắng, Tòng, Trọng,
Trác, Phong Huệ, Thành, Ðiệp, Dĩnh Ngộ, Liên Chi, Lâm Liêu Kim trong 10 ngày
thấy lại thời đi học mặc dù bên trong chúng ta là những thay đổi lớn. Thay đổi
trái biệt lớn lao là hai bạn Quỳnh Giao và Liên Chi. Một Quỳnh Giao theo Pháp
Luân Công và một Liên Chi thích chuyện trinh thám kinh dị, thời đi học cô bạn
tôi thích đọc văn thơ, người lả lướt nay bỗng nhiên thích chuyện giết người,
những chuyện “một áng dao bay nghìn thuở đẹp”, bạn tôi như nhân vật Parry trong
chuyện “hành lang tối” (Dark Passage) của David Goodi, muốn giết người, muốn
giải phẫu thay bộ mặt cho hợp cuộc đời mới nhưng sợ đau và trong tận cùng đáy
lòng vẫn là một người ngây thơ vô tội.
Trong
một phút vui ở quán cà phê, các bạn đã nhắc đến những năm học Y khoa và đã nhớ
tôi là sinh viên y khoa giỏi, nhất là những lúc đứng bên giường người bệnh,
những giờ phút lâm sàng. Hai tháng trước, Tập San Y Sĩ ở Montréal ngỏ ý nhắc
tôi viết một vài kỷ niệm ở Bệnh Viện Bình Dân đúng vào lúc “hồn thơ không lai
láng” nay gặp các bạn vài kỷ niệm cũ lại đổ về.
Ý
tưởng vào y khoa của tôi đến vào Tết Mậu Thân năm 1968 khi còn học đệ nhất
trường Chu Văn An chưa đậu tú tài hai. Những ngày tổng công kích vào Sàigòn của
Việt Cộng đã khiến các bệnh viện thiếu điều dưỡng. Tôi vào bệnh viện Nhi Ðồng
với toán Hướng Ðạo tình nguyện công việc cứu thương, băng bó, săn sóc bịnh
nhân, phụ các bà sơ, đi theo các anh sinh viên y khoa năm thứ 4, các anh Nguyễn
Chấn Hùng và Nguyễn Lương Tuyền, ở phòng anh nội trú Vũ Văn Dzi trong khu giải
phẫu tiểu nhi. Tôi đã ngưỡng mộ hình ảnh những sinh viên áo trắng. Năm ấy, lần
đầu tiên vào phòng mổ nhìn giáo sư Trần Ngọc Ninh, ông lúc ấy đang giữ chức bộ
trưởng giáo dục, con người cao lớn nghiêm nghị làm chúng tôi kính sợ chỉ dám
đứng nhìn từ xa. Tôi đã muốn trở thành y sĩ giải phẫu sau khi nhìn Bác Sĩ Trần
Xuân Ninh cưa chân một em bé bị chấn thương vì mìn (trọn ba ngày sau đó tôi
không dám ăn bánh canh giò heo). Hè năm ấy tôi đậu vào y khoa theo chân các anh
Nguyễn Lương Tuyền và Nguyễn Chấn Hùng (đàn anh Hướng Ðạo). Tôi không theo con
đường giải phẫu tiểu nhi nhưng có vài kỷ niệm đáng nhớ ngông nghênh ở bệnh viện
Nhi Ðồng với Bác Sĩ Trần Xuân Ninh, ông là một bác sĩ giỏi, hơi ngạo mạn (tánh
của các y sĩ giải phẫu) khó với sinh viên (Tháng Giêng năm ngoái gặp nhau ở
Chicago nhắc chuyện cũ ông đã tự nhận: Tôi biết nhiều người ghét tôi!). Năm thứ
tư, đi thực tập qua khu giải phẫu tiểu nhi, cuối kỳ thực tập sinh viên phải qua
kỳ thi viết. Tôi làm bài thi được Bác Sĩ Trần X Ninh khen giỏi nhưng chỉ cho 18
điểm. Tôi đã ngông nghênh phản đối: “Anh nói bài em hoàn toàn không lỗi, đi
thực tập không vắng mặt, ban đêm 3, 4 giờ sáng phụ mổ cạnh anh vậy mà anh keo
kiết chỉ cho em 18 điểm!” Ông cầm viết gạch ngay con số 18 thay vào là con số
20. Hai anh em tính ngang tàng sau này còn vài kỷ niệm đáng nhớ.
Kỷ
niệm thứ hai của thời sinh viên ngông nghênh cũng ở bệnh viện Nhi Ðồng, đúng
hôm phải thi cuối kỳ thực tập ở khu nhi khoa của Giáo Sư Thái Văn Kim tôi buồn
bỏ đi xem xi nê rạp Rex dù bạn bè đã cảnh cáo sắp phải thi vấn đáp. Qua hôm sau,
Giáo Sư Kim gọi tôi vào văn phòng hỏi: Tại sao anh bỏ không thi ngày hôm qua?
Tôi thành thật trả lời, “Em buồn quá, nhìn bạn bè đi lính vì Mùa Hè Ðỏ Lửa nên
em đã đi xem xi nê.” Ông giáo sư Thạc sĩ y khoa ở Pháp mới về nhìn tôi như quái
vật, cho tôi một cơ hội về nhà học bài mai vào thi vấn đáp, tôi trả lời ngay:
“Thầy cho em thi ngay bây giờ, để đến ngày mai mất thì giờ của cả thầy và trò”.
Trong nửa giờ, tôi đã ngồi giảng trôi chảy 3 câu hỏi của thầy, Giáo Sư Kim đã
phải đi hỏi các giáo sư khác: “Sinh viên Việt Nam sao học lạ quá, khác với sinh
viên Pháp!” Giáo Sư Kim không biết cũng cùng năm ấy Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy làm
chương trình thí nghiệm gởi sinh viên qua thực tập tại bệnh viện Grall và các
bác sĩ Pháp cũng đã phải hỏi Giáo Sư Huy và Bác Sĩ Nhơn: “Cái thằng sinh viên
Việt Nam lạ quá, nó không biết nói tiếng Tây nhưng bạn nó cùng nhóm thực tập
cái gì cũng hỏi nó rồi thông dịch lại những câu trả lời cho chúng tôi”.
Ký
ức tôi đầy ắp những hình ảnh bệnh viện Bình Dân. Bệnh viện nhỏ nằm trên đường
Phan Thanh Giản gần góc đường Cao Thắng. Từ xóm nhà tôi đi qua ngõ hẻm nhà
thuốc Kim Ðiền băng qua các ngõ hẻm đến cửa sau bệnh viện. Năm học lớp nhì
trường Bàn Cờ, Sơn bạn tôi có bố làm y tá khu Nhãn Khoa đã dẫn tôi vào khuôn
viên bịnh viện chơi đùa mỗi buổi chiều gần nhà xác sau bệnh viện và sau những
phòng bệnh nhân có mùi hôi thối của khu ung thư vì vậy tôi biết khu ung thư
trước khi vào y khoa. Năm 11 tuổi anh tôi đánh trái vũ cầu vào mắt phải, mắt
chảy máu sau thành mắt cườm được chị Vân y tá phòng mắt (nhà ở cạnh Bác Sĩ Bùi
Mộng Hùng cùng xóm tôi) dẫn vào khám mắt với Bác Sĩ Nguyễn Ðình Cát (sau mới
biết chị là chị Vân nhỏ còn chị Vân lớn phòng mổ sau là mẹ vợ tôi).
Năm
thứ hai sinh viên y khoa bắt đầu đi thực tập bệnh viện, thích mổ xẻ ban ngày đi
học ban đêm tôi đi theo anh nội trú Nguyễn Chấn Hùng gác mỗi ba đêm để học.
Thời ấy các giáo sư ở trên cao (nói theo bác sĩ T X Ninh là Grand prof.) đến
gần thầy khó hơn đi tán gái chỉ biết nhìn thầy như “ngẩng đứng trông vời áo
tiểu thơ” nên cách học tốt nhất là đi theo các anh nội trú của các giáo sư Phạm
Biểu Tâm, Trần Ngọc Ninh, Ngô Gia Huy, Ðào Ðức Hoành, Nguyễn Ðình Cát, Nguyễn
Văn Út, các giáo sư Thạc Sĩ của trường Y khoa Sàigòn.
Năm
thứ hai tôi đi theo phụ mổ ở phòng cấp cứu với các anh lớn Tăng Nhiếp, Hồ Tấn
Phước, Nghiêm Ðạo Ðại, Võ Thành Phụng, Nguyễn Chấn Hùng, Nguyễn Văn Quang, Ðặng
Phú Ân... và làm những công việc y tá như lấy nước tiểu đem đến phòng thí
nghiệm, theo bà Thái khu tiết niệu đặt ống thông bọng đái, khâu vá vết thương ở
phòng tiểu giải phẫu, băng bó vết thương khu giải phẫu tổng quát, băng bột, cắt
bột ở phòng chỉnh trực của Giáo Sư Hoàng Tiến Bảo, theo sơ Mariac thay vết
thương ở khu ung thư. Năm thứ hai tôi đúng như anh thợ học nghề trong các
chuyện y khoa ở Tàu ở Hy Lạp ngày xưa, ban ngày vào trường, ban đêm vào bệnh
viện, thời kỳ chiến tranh nạn nhân chiến tranh không thiếu, tôi vẫn có giờ ra
Sàigòn uống café đến nhà bạn học bài và nhiều hoạt động khác.
Năm
thứ tư các bà y tá nhẵn mặt tôi và các đàn anh tin tưởng dám để mổ những “ca”
dễ như ruột dư, đặt ống thông phổi, xuống phòng hồi sức thăm bệnh, cắt thịt dư
khu tai, mũi, họng của Bác Sĩ Huỳnh V. Xuân, chưa vào nội trú mà tôi đã được
xem như là “ông thầy”.
Năm
thứ năm thi đậu vào nội trú, tôi về khu ung thư của Giáo Sư Ðào Ðức Hoành, ông
đặc biệt thương cậu học trò ngông nghênh hay che trở những tật xấu và lỗi lầm
của học trò hay gọi tôi lên giảng bài cho các bạn cùng lớp cho nên “thầy
thương, bạn ghét”. Dưới Giáo Sư Ðào Ðức Hoành là bác sĩ Nguyễn Quang Huấn, Trần
Ngọc Quang và Nguyễn Chấn Hùng. Các anh làm giảng nghiệm viên cùng phe với cậu
nội trú nên những đêm gác ở bệnh viện có đi với những màn nhậu bá vai bá cổ
Hùng, Phụng, Ân, Quang mù, Quang đế, trong đám tôi là người nhỏ tuổi nhất. Thời
gian đã qua, bây giờ nhìn lại mới thấy thời kỳ ấy là thời kỳ đẹp, anh em sống
trong gia đình giải phẫu y khoa Bình Dân với tình sư đệ. Một Giáo Sư Phạm Biểu
Tâm khắc khổ đạo đức, một Giáo Sư Trần Ngọc Ninh kiến thức thông thái, một Giáo
Sư Ngô Gia Hy “tròn” không mất lòng người, một Giáo Sư Ðào Ðức Hoành với tâm
Phật và một Giáo Sư Hoàng Tiến Bảo tận tâm với sinh viên. Thời kỳ ấy là thời kỳ
anh em thương yêu nhau thật lòng, tranh nhau học để tiến bộ, để xây dựng bịnh
viện Bình Dân, trường Y Khoa Sàigòn và một nền y tế Việt Nam. Kết quả là phái
bộ AMA đã phải công nhận bịnh viện Bình Dân là nơi đào tạo nhân tài và theo
đúng tiêu chuẩn giải phẫu quốc tế. Thời kỳ ấy khác xa thời kỳ sau 30 Tháng Tư
1975, thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa, trong đó con người “xô nhau mà đi, đạp
nhau mà lên” mất cả tình anh em.
Trong
10 ngày ở Montréal, tôi gặp Bác Sĩ Nguyễn Lương Tuyền 3 lần, anh đã về hưu 2
năm không còn làm giáo sư giải phẫu tiểu nhi Ðại Học Mc Gill. Ngày đầu tiên
người đàn anh hơn tôi 5 lớp, nay theo thời gian khoảng cách ngắn lại, anh lại
là một người bạn. Anh pha trà đợi tôi khiến tôi nghĩ đến cảnh các cụ ngày xưa
như Tam Nguyên Yên Ðổ đợi bạn từ xa đi bộ đến thăm nhà. Thời gian còn lại của
chúng tôi những người 60 tuổi như hai câu thơ của Du Tử Lê “Hãy nói về cuộc
đời, khi ta không còn nữa” và chúng tôi đã nói với nhau rất nhiều về những kỷ
niệm ở bệnh viện Nhi Ðồng, ở bệnh viện Bình Dân, về những người bạn rất thân.
Con người có lúc bị bạn bè xem là tự kiêu nay nhẹ nhàng nói với tôi: “Toa đến,
moa rất vui, nếu toa đến thăm moa mỗi ngày chắc moa hết bệnh”. Tôi cũng thấy
rất vui mỗi lần gặp lại anh, thời buổi này gặp một người tâm đầu ý hợp đã khó
nói chi anh là người đã đem đến cho tôi nguồn cảm hứng theo đuổi ngành y khoa
và là người đã bỏ thì giờ để dạy tôi thi vào nội trú các bịnh viện, kết quả là
năm 1973 tôi đã đỗ nội trú hạng rất cao cùng với Quỳnh Giao và Võ Thái Phú hai
người đã được anh hướng dẫn.
Ðêm
trước khi rời Montréal, tôi được hưởng thú uống cà phê ngoài trời trên đường
St. Bernard cùng với hai người bạn, Nguyễn Mậu Phụng và Lê Tạo. Phụng là bạn
học trung học 51 năm về trước, vắng nhau từ một “Mùa Hè qua ngày ấy, tạm biệt
nhau từ đấy” đến Houston ngày Father's Day năm 2007, gây cảm hứng cho “Cha tôi
và những Mùa Hè năm tháng cũ” Nguyễn Mậu Phụng bạn tôi giỏi toán và hình học,
chìa khóa giải được những nhiệm mầu khoa học nhưng không giải quyết được những
vấn đề của cuộc đời, anh bạn kỹ sư của tôi giờ đây chỉ muốn một ngày biến mất
vào vũ trụ! Còn Tạo say mê nói về Montréal, thành phố dễ thương anh đã chọn
thay Paris. Ðêm xuống, người Montréal đổ về phố nói tiếng Pháp lại càng làm tôi
nhớ đến Paris.
Mười
ngày được bạn tôi cho đi lại khắp Montréal, đi lên lại nhà thờ St. Joseph nhìn
xuống thành phố và nghe tiếng gió thầm thì, đi bộ quanh ngôi chùa mới Ðại Tùng
Lâm, ngắm cảnh núi đồi với thông Gia Nã Ðại và tưởng tượng như đang đi hành
hương ở Ấn Ðộ qua vườn Lâm Tỳ Ni, vườn Bồ đề Ðạo Tràng đến Banares và về nơi
Phật nhập Niết Bàn, thời tiết Montréal đẹp nhưng có hai ngày mưa lạnh như
Houston Mùa Ðông. Hai ngày nhìn trời mưa tôi muốn bỏ tay vào túi quần, đội mưa
mà đi dưới tháp Eiffel như anh chàng Adrieu Brody trong phim “Midnight in
Paris” của Woody Allen.
Montréal,
tôi đã đến trong nhiều Mùa Hè, mong một ngày Mùa Ðông, tôi sẽ trở lại, cùng
những người bạn đi cạnh nhau trong công viên giá lạnh tìm lại thời gian đã mất
như hai câu thơ của Verlaine:
“Dans
le vieux parc solitaire et glacé
Deux
spectres cherchent le passé.”
Việt
Nguyên
19
tháng 6, 2012
No comments:
Post a Comment