Du Tử Lê
Wednesday,
July 11, 2012 2:56:20 PM
Cho tới ngày hôm nay, nhìn lại sinh hoạt của miền Nam Việt Nam,
giai đoạn 1954-1975, không ít người cho rằng, cuộc di cư của hơn 1 triệu đồng
bào miền Bắc chạy trốn cộng sản, vào miền Nam, đã xới tung nếp sinh hoạt êm
đềm, của người dân vùng đất trù phú, hiền hòa này!
Vẫn
theo ghi nhận của số người đó thì, có thể do bản năng sinh tồn mạnh mẽ, sau khi
đã chấp nhận bỏ lại sau lưng toàn bộ gia sản, sự nghiệp, mồ mả cha ông... những
người miền Bắc di cư vào Nam với hai bàn tay trắng đã trở thành những người
bằng mọi giá, quyết liệt làm lại cuộc đời nơi phần đất mới...
Quyết
tâm làm lại cuộc đời từ con số không, của lớp người Bắc vừa kể, đã vẽ nên một
bức tranh đầy những game mầu nóng hổi, chói gắt trên tất cả mọi lãnh vực. Từ xã
hội, chính trị, thương mại tới văn hóa, giáo dục... Cụ thể và, rõ nhất là lãnh
vực văn học, nghệ thuật.
Cho
tới nay, không ai biết chính xác có bao nhiêu văn nghệ nằm trong con số trên
một triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam. Chỉ biết, ở lãnh vực nào thì đó cũng
là những con số không nhỏ. Từ những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ nổi tiếng
từ thời tiền chiến, đến những văn, nghệ sĩ mới nổi tiếng trước cũng như điểm
mốc lịch sử 1954 một vài năm... Họ xuất hiện ở miền Nam, tưng bừng, đông đảo như
những đợt sóng mới mẻ, quyến rũ nhất.
Chính
sự ồn ào, khoa trương và, sự công kênh nhau, đôi khi quá đáng, của lớp văn nghệ
sĩ này, đã khiến một số người nghĩ rằng, trước khi có người Bắc di cư, miền Nam
chỉ có một nền văn học, nghệ thuật èo uột, thiếu máu. Sự thực, không phải thế.
Sự thực ngược lại.
Nếu
không kể bộ môn Cải Lương là nét đặc thù, độc đáo của sinh hoạt văn nghệ miền
Nam, thì trong lặng lẽ, an bình như bản chất người dân, như cảnh thổ êm đềm của
hai dòng sông Tiền, sông Hậu, sinh hoạt văn học nghệ thuật Nam bộ (ta có thể
dùng cụm từ này cho dễ phân biệt,) vốn đã vô cùng phong phú.
Không
cần phải lùi lại thời của các nhà văn miền Nam nổi tiếng như Hồ Biểu Chánh, Phi
Long... chỉ cần tính từ điểm mốc lịch sử 1954, trước cũng như sau cuộc di cư
của đồng bào miền Bắc, sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam đã ghi đậm tên
tuổi, tài năng của những Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Phi Vân, Trang Thế Hy, Tô
Nguyệt Ðình, Kiên Giang-Hà Huy Hà, Trọng Nguyên, Dương Hà, Ngọc Linh, Sĩ Trung,
Hà Liên Tử, Lê Vĩnh Hòa, v.v.
Sau
lớp nhà văn nhà thơ vừa kể, là lớp những người cầm bút Nam bộ, sinh trước hoặc
sau thập niên (19)40 vài năm. Trong số này, có nhiều tên tuổi còn vang danh tới
bây giờ, như Dương Trữ La, Tường Linh, Hoài Ðiệp Tử, Trương Ðạm Thủy, Anh Việt
Thu, Thiên Hà, Phương Triều, Lý Thụy Ý... Tôi gọi những cây bút Nam bộ này là
“Thế hệ 1960” hay những định hình nền móng của dòng văn chương mạch ngầm, hai
mươi năm miền Nam.
Khi
dùng cụm từ “dòng văn chương mạch ngầm,” ý tôi muốn đề cập tới hai dòng chảy song
song của văn học, nghệ thuật miền Nam, 20 năm. Một dòng chảy ồn ào, sôi nổi
trên bề mặt là sinh hoạt văn chương, báo chí, trình diễn... có ảnh hưởng giới
hạn! Nó chỉ phổ cập trong tầng lớp thị thành. Ðó là giới văn nghệ sĩ di cư từ
miền Bắc.
Cùng
lúc đó, miền Nam còn có một dòng chảy đã bám rễ, ăn sâu trong sinh hoạt tinh
thần của đại đa số quần chúng, nhất là lớp người sống với đồng ruộng, nông
thôn, xa thị thành. Ðó là dòng chảy văn học Nam bộ.
Tuy
cùng một mẫu số chung là cung ứng món ăn tinh thần cho đám đông; đồng thời xiển
dương tính nhân bản như một nền tảng giá trị của văn học, nghệ thuật - Nhưng
đặc tính của sinh hoạt văn nghệ Nam bộ, không có thói quen, tập quán ca tụng
nhau trên các diễn đàn công cộng. Lớp cầm bút đàn anh, đi trước, lặng lẽ theo
dõi, quan sát lớp đàn em đi sau. Một khi nhận ra tương lai hoặc khả năng tiềm
tàng nơi những cây bút mới, lớp đàn anh này bày tỏ sự nhìn nhận, bằng cách quan
tâm tới sinh kế, đời sống vật chất hàng ngày của những tiềm năng trẻ đó.
Theo
tôi, có dễ vì bản chất người người miền Nam là “trọng nghĩa khinh tài,” - Là
tinh thần của những anh hùng Lương Sơn Bạc, sống quên mình cho kẻ khác. Không
bo bo lo cho bản bản thân. Không chăm chắm thu vén tiền tài, danh vọng cho cá
nhân mình. Nên, trong êm ả, thầm lặng, giới cầm bút Nam bộ là một khối keo sơn,
đoàn kết trong tinh thần tương trợ mặc nhiên, giữa những người cùng ngành nghề.
Cũng
vì thế, trong suốt 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, người ta chỉ ghi nhận
được một vài cuộc bút chiến nảy lửa, do bất đồng quan điểm văn chương hoặc
triết học, từ giới văn nghệ sĩ miền Bắc di cư mà, tuyệt nhiên, không một tai
tiếng tương tự nào, xảy ra trong sinh hoạt của giới cầm bút Nam bộ.
Nói
về tinh thần “Hảo hớn, Lương sơn bạc” trong giới nhà văn gốc miền Nam, nhà thơ
Thiên Hà (tên thật Dương Cao Thâm) cho biết, nếu ông không nhận được sự chú ý
đặc biệt của nhà văn lớp đàn anh là Ngọc Linh thì, không biết ông có thể trải
qua những năm đầu khi mới bước chân lên đại học, năm 1962 không? Ðó cũng là
thời gian ông và một vài bạn văn khác, được trao giải thưởng truyện ngắn hàng
năm của báo Tiếng Chuông. Sự kiện tưởng chừng không đáng kể ấy, đã lọt vào tầm
quan sát của nhà văn Ngọc Linh. Khi biết Thiên Hà/Dương Cao Thâm đang gặp nhiều
khó khăn trong việc mưu sinh, tác giả “Ðôi mắt người xưa” đã lặng lẽ yêu cầu
nhà văn Sĩ Trung, bạn ông, nhận họ Dương vào làm “Thầy Cò” sửa lỗi chính tả cho
nhà xuất bản Phù Sa của Sĩ Trung.
Thiên
Hà nhấn mạnh:
“Không
chỉ riêng tôi mà, rất nhiều anh em thuộc thế hệ tôi, đã nhận được những nâng
đỡ, dẫn dắt cụ thể như thế.”
Họ
Dương cũng kể, có một trường hợp biệt lệ là năm 1963, nhà văn trẻ Tâm Ðạm được
trao giải thưởng truyện ngắn Tiếng Chuông và, ngay sau đó, ông đã được nhà văn
lão thành Bình Nguyên Lộc mời viết chung feuilleton (loại tiểu thuyết viết từng
ngày cho nhật báo). Tiểu thuyết nhan đề “Lòng ngỡ quên mà nhớ rất xa,” đăng tải
từng kỳ trên nhật báo Buổi Sáng do ký giả Tam Mộc làm chủ nhiệm. Từ lúc này,
theo đề nghị của nhà văn Bình Nguyên Lộc, Tâm Ðạm có bút hiệu mới, Dương Trữ
La.
Bút
hiệu ấy được nhà văn Tâm Ðạm sử dụng cho tới khi từ trần. (1)
Du
Tử Lê,
(Tuần
tới: “Vài khuôn mặt tiêu biểu của mạch ngầm văn chương Nam Bộ, thế hệ 1960.”
Chú thích:
1.
Nhà văn Tâm Ðạm/Dương Trữ La tên thật Dương Ngọc Lạc, sinh ngày 16 tháng 3,
1937, tại Gò Vấp, Gia Ðịnh. Ông đã xuất bản 3 thi phẩm và 15 tập văn xuôi, gồm
truyện ngắn và truyện dài. Tâm Ðạm/Dương Trữ La mất ngày 20 tháng 7 năm 2000,
tại Saigon.
No comments:
Post a Comment