Chuyên
gia tài chính Trung Quốc bàn về VinFast, Vingroup và kinh tế Việt Nam
Fan Tong Huang Lao Ban, 饭统戴老板|西贡河畔的谜题:越南的三星和比亚迪在哪里?, Guancha
Lê Thị
Thanh Loan, biên dịch
Ngày
15/8/2023, hãng ô tô Việt Nam VinFast được niêm yết tại Mỹ với giá trị vốn hóa ở
mức cao nhất lên tới 200 tỷ USD.
Tuy
không có danh tiếng lẫy lừng nhưng VinFast lại được nhà nhà biết đến ở Việt
Nam, công ty mẹ của hãng xe này là Tập đoàn Vingroup, doanh nghiệp tư nhân lớn
nhất Việt Nam. Công ty này có vô số điểm tương đồng với Evergrande: ông chủ Phạm
Nhật Vượng cũng là người giàu nhất giống như Hứa Gia Ấn, hoạt động kinh doanh
chính của họ là bất động sản, cả hai đều thích làm bóng đá và có tư duy “cái gì
ra tiền thì làm cái đó”. Nhìn tổng thể thì VinFast gần như là phiên bản Việt
Nam của Evergrande.
VIDEO
:
Chuyên gia
tài chính Trung Quốc bàn về VinFast, Vingroup và kinh tế Việt Nam
https://www.youtube.com/watch?v=51Yg7FzE6UY
Hiểu
như thế nào về khái niệm vốn hóa thị trường 200 tỷ USD? Nếu xếp hạng thì con số
này đứng thứ ba thế giới, chỉ sau Tesla và Toyota. Trên thực tế, khi Phố Wall xếp
hạng VinFast, đó cũng là lúc lý thuyết về sự trỗi dậy của Việt Nam đang ở vào
thời đỉnh cao. Ở một mức độ nào đó, điều này phản ánh trí tưởng tượng đẹp đẽ của
thế giới về việc Việt Nam sẽ thay thế vị thế công xưởng thế giới của Trung Quốc,
ngay cả khi chưa có ai trên thế giới ngoài người Việt được chiêm ngưỡng xe của
VinFast.
Vào
cuối tháng 7, tôi đến TP.HCM công tác và có ghé thăm một cửa hàng VinFast. Giống
như các thế lực mới trong nước, VinFast cũng mở cửa hàng trải nghiệm tại các
trung tâm mua sắm cao cấp. Một người bạn Trung Quốc ở Việt Nam cùng tôi đi khảo
sát cho biết, xe điện VinFast về cơ bản được lắp ráp từ linh kiện Trung Quốc:
pin của Gotion High-Tech, động cơ của Dalian Haosen, radar của Shanghai Baolong
và cảm biến nhiệt của Jiangsu Kingfield…
Vì
vậy, chiếc xe này đem lại cảm giác có chút “giả”.
Lịch
sử đã chứng minh Việt Nam không mấy phù hợp với vị trí thứ ba thế giới. VinFast
nhanh chóng bị đưa trở lại giá trị thực và vốn hóa đã giảm 95% so với mức đỉnh.
Tuy nhiên, khi thảo luận với người bạn Việt Nam về công ty này, chúng tôi nảy
ra một câu hỏi thú vị: VinFast đã dựa vào sự thổi phồng của Phố Wall để trở
thành thương hiệu Việt đầu tiên vươn tầm toàn cầu, nhưng ngoài nó ra, Việt Nam
đã từng có thương hiệu đẳng cấp thế giới hay đẳng cấp châu Á nào?
Bối
cảnh của câu hỏi này là: Việt Nam đã bước sang năm thứ 38 kể từ cuộc cải cách
vào năm 1986, ít nhất cũng phải có một số công ty trong nước có tên tuổi.
Thế
là người bạn Việt Nam của chúng tôi kể ra một loạt cái tên: Vinamilk, Viettel,
VietinBank… Một người bạn Singapore cùng ngành đã làm việc ở Việt Nam hơn mười
năm ngắt lời anh ấy và nói rằng, có rất ít người dân ở các nước láng giềng Đông
Nam Á của Việt Nam từng nghe nói đến những thương hiệu này, chứ đừng nói đến đẳng
cấp thế giới hay đẳng cấp châu Á.
Chúng
ta cũng có thể đưa ra các ứng cử viên của “mô hình Đông Á” và tiến hành một so
sánh thống nhất:
Với
Nhật Bản, nếu bắt đầu tính từ năm 1946 thì 38 năm sau là 1984, nước này đã có
các hãng lớn như Sony, Toyota, Panasonic, Toshiba… Sản phẩm của họ bán chạy
trên toàn thế giới, ngay cả người Mỹ cũng hét lên rằng “Nhật Bản là số 1”.
Đài
Loan bắt đầu xây dựng nền kinh tế định hướng xuất khẩu vào năm 1958. 38 năm
sau, tức năm 1996, Acer, Formosa Plastics, Asus và Uni-President đã nổi tiếng
khắp châu Á. Ngay cả TSMC, một doanh nghiệp mới thành lập chưa đầy 10 năm, cũng
đang chuẩn bị lên sàn.
Chính
phủ Park Chung-hee của Hàn Quốc thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên vào năm 1962.
38 năm sau, vào năm 2000, các doanh nghiệp chaebol như Samsung, LG, Hyundai,
KIA đã trở thành tấm danh thiếp quốc gia của Hàn Quốc với danh tiếng vươn tầm
thế giới.
Điều
này cũng đúng với Trung Quốc đại lục. Nếu tính từ năm 1978 thì 38 năm sau, tức
năm 2016, có 110 công ty Trung Quốc nằm trong top 500 công ty hàng đầu thế giới.
Huawei, Haier, Lenovo, Tencent và Alibaba đã tạo dựng được danh tiếng trên toàn
cầu.
Nếu
nói quy mô của Trung Quốc đại lục lớn hơn Việt Nam rất nhiều và không thể so
sánh thì Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đều có cùng tầm cỡ (hoặc nhỏ hơn) với
Việt Nam về cả dân số và diện tích, nhưng Việt Nam lại có khoảng cách rất lớn
so với cả ba.
Nếu
đặt câu hỏi này với giới tinh anh Việt Nam, chỉ cần bạn đủ khéo léo, họ sẽ
không cảm thấy bị xúc phạm, mà sẽ kể với bạn không ngừng: Một số người quy cho
việc chính phủ thiếu hành động, phàn nàn về việc quan chức tham nhũng; có người
bàn đến thói hư tật xấu của dân tộc và việc người dân sính ngoại, chỉ yêu thích
thương hiệu Nhật, Hàn; có người trách cứ các công ty không có khát vọng, chỉ biết
bóc lột công nhân trong cuộc chiến giá cả rồi chuyển tài sản sang Mỹ…
Những
lời này nghe có chút quen thuộc. Thậm chí, tôi còn tự hỏi liệu chúng có được
trích từ một trang web tiếng Trung hay không. Tất nhiên, việc phàn nàn chỉ có
thể trút bỏ cảm xúc chứ chẳng thể nào cho ra được đáp án. Vẫn cần dựa vào số liệu
và thực tế để trả lời câu hỏi này: Việc Việt Nam vắng bóng thương hiệu nội địa
là kết quả của sự mất cân bằng cơ cấu kinh tế trong thời gian dài, hay nói cách
khác, là do sự thất bại trong việc học hỏi “mô hình Đông Á”.
Đằng
sau câu hỏi này ẩn chứa sự thực về nền kinh tế Việt Nam. Chỉ khi hiểu được nó,
bạn mới có thể thực sự hiểu về Việt Nam.
01.
Nhìn
bề ngoài, Việt Nam là người bạn siêng năng cùng học hỏi “mô hình Đông Á” và là
đại diện tiêu biểu cho việc “níu lấy Trung Quốc để qua sông”.
Nhịp
độ của Việt Nam cách Trung Quốc khoảng 6 đến 10 năm: Trung Quốc bắt đầu cải
cách mở cửa từ năm 1978, Việt Nam cũng bắt đầu thực hiện cải cách đổi mới từ
năm 1986; năm 1980, Trung Quốc bắt đầu thực hiện “hệ thống khoán hộ gia đình”,
Việt Nam thực hiện chính sách tương tự năm 1988; năm 1982, Trung Quốc công nhận
địa vị pháp lý của kinh tế tư nhân, Việt Nam thông qua Luật Doanh nghiệp tư
nhân năm 1990; Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001, Việt Nam cũng gia nhập WTO năm
2007.
Chúng
ta coi cuộc cải cách của hai bên làm xuất phát điểm và vẽ ra tốc độ tăng trưởng
GDP của hai nước trong 20 năm qua. Có thể thấy rằng, cả Trung Quốc và Việt Nam
đều trải qua hai chu kỳ tăng trưởng, nhưng tốc độ của Trung Quốc nhanh hơn. Từ
năm 1978 đến năm 1998, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Trung Quốc là 9,8%,
trong khi từ năm 1986 đến năm 2006, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Việt
Nam là 7,1%. Từ góc độ dữ liệu, thành tích của Việt Nam trong 20 năm đầu của cuộc
cải cách là khá chuẩn mực.
Tuy
nhiên, nếu nhìn sâu hơn vào cơ cấu kinh tế của hai nước, chúng ta sẽ nhận thấy
sự khác biệt to lớn.
Từ
cơ cấu xuất khẩu của Trung Quốc năm 1998 có thể thấy, các sản phẩm cơ điện tử
đã vượt qua dệt may và trở thành sản phẩm xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc.
Còn với cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam năm 2006, có thể thấy sau 20 năm cải
cách, nhiên liệu (chủ yếu là xăng dầu) chiếm thị phần xuất khẩu lớn nhất, và
trong số các sản phẩm công nghiệp, dệt may và giày dép xếp trên các sản phẩm cơ
điện tử.
Tổng
kết đơn giản như sau: Trong kỳ đầu, Trung Quốc và Việt Nam đều xây dựng nền
kinh tế “định hướng xuất khẩu” theo mô hình Đông Á. Tuy nhiên, trong hai thập kỷ
đầu của cuộc cải cách mở cửa, Trung Quốc đã chuyển từ các ngành cấp thấp như dệt
may sang các sản phẩm có giá trị gia tăng cao như điện và cơ khí, trong khi Việt
Nam vẫn dừng lại ở tài nguyên khoáng sản và các sản phẩm công nghiệp cấp thấp.
Nhìn bề ngoài, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam gần giống với số liệu của
Trung Quốc nhưng lại có những lỗ hổng nhất định trong cơ cấu.
Không
phải Việt Nam không có cơ hội sửa chữa sự lạc hậu về cơ cấu, mà thực tế là họ
đã sớm nhận được cơ hội thứ hai.
Tháng
1 năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, hàng loạt công ty có vốn nước
ngoài đổ vào Việt Nam. Đặc biệt, năm 2008, Samsung đầu tư xây dựng nhà máy đầu
tiên ở Việt Nam tại tỉnh Bắc Ninh và sau đó triển khai kế hoạch “kiến chuyển
nhà”, liên tiếp đóng cửa các nhà máy ở Thâm Quyến, Thiên Tân và Huệ Châu để
chuyển đến Việt Nam, kèm theo một lượng lớn các nhà sản xuất linh kiện thượng
nguồn và hạ nguồn. Việt Nam nghênh đón nhà đầu tư lớn nhất trong lịch sử.
Hiện
nay, Samsung sản xuất điện thoại di động, đồ gia dụng, máy tính, linh kiện
chip, linh kiện điện tử và các sản phẩm khác tại Việt Nam. Đặc biệt, sản lượng
điện thoại di động của Samsung Việt Nam đã vượt quá một nửa sản lượng toàn cầu
của Samsung, đưa Việt Nam trở thành nhà sản xuất điện thoại di động lớn thứ hai
trên thế giới. Giá trị sản lượng hằng năm của Samsung tại Việt Nam chiếm tới
hơn 20% GDP của nước này. Thậm chí, một lãnh đạo cấp cao của Samsung cũng từng
đảm nhận chức Đại sứ Hàn Quốc tại Việt Nam.
Trong
Chiến tranh Việt Nam, chính phủ Park Chung-hee đã phái tổng cộng 320.000 người
đến Việt Nam để giúp đỡ quân đội Mỹ. Dưới sự thúc đẩy của Samsung, các doanh
nghiệp Hàn Quốc kéo nhau tới. LG đổ bộ vào Đà Nẵng, SK vào Hải Phòng, Hyundai
khai thác Ninh Bình, Lotte cắm cờ ở Thành phố Hồ Chí Minh, POSCO ngụ ở Bà Rịa
Vũng Tàu… Các doanh nghiệp Hàn Quốc kết thành một dải từ Nam ra Bắc, thực hiện
giấc mơ còn dang dở của quân đội Mỹ hồi đó.
Vốn
sản xuất theo mô hình Đông Á sẽ không bỏ sót bất kỳ quốc gia nào có nhân công
giá rẻ. Các doanh nghiệp từ Nhật Bản, Đài Loan lần lượt vào Việt Nam, còn TCL
và Haier của Trung Quốc đại lục cũng vào Nam mở nhà máy từ rất sớm. Vì vậy, với
sự giúp đỡ của các chủ doanh nghiệp nước ngoài, nền xuất khẩu của Việt Nam cũng
dần rời xa thời đại của nguyên liệu thô và dệt may, các sản phẩm cơ điện có giá
trị gia tăng cao đã chiếm 40% kim ngạch xuất khẩu vào năm 2023.
Theo
kinh nghiệm của mô hình Đông Á, việc tận dụng hiệu ứng lan tỏa của các doanh
nghiệp có vốn nước ngoài lên chuỗi cung ứng bản địa, cùng sự tiếp thu và hấp thụ
các công nghệ tiên tiến có thể giúp nuôi dưỡng một lượng lớn các doanh nghiệp
thuộc chuỗi công nghiệp bản địa. Các thương hiệu bản địa này có thể hoàn thành
cuộc phản công chống lại các doanh nghiệp nước ngoài, trước tiên là thay thế
hàng nhập khẩu, tiếp đó là tiến hành cạnh tranh với các ông trùm nước ngoài
trên toàn cầu và cuối cùng trở thành thế lực xuất khẩu lớn. Có rất nhiều công
ty ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc có thể làm được điều này.
Vậy
Việt Nam có làm được điều này không? Hãy nhìn thẳng vào số liệu.
Đây
là biểu đồ về tỷ trọng doanh nghiệp FDI trong xuất khẩu của Việt Nam. FDI là viết
tắt của Đầu tư trực tiếp nước ngoài, bao gồm cả doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài và doanh nghiệp liên doanh. Có thể thấy, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, tỷ
trọng FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng lên qua từng năm và tỷ trọng của
doanh nghiệp nội địa cũng giảm dần theo thời gian. Đến năm 2023, tỷ trọng FDI
đã tăng lên mức khoảng 74%.
https://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2024/09/FDI-Vietnam.jpg
Khi
phân tích sâu hơn, có thể thấy, trong các lĩnh vực sản phẩm công nghệ cao như
điện thoại di động, máy tính, đồ gia dụng và linh kiện điện tử, vốn đầu tư nước
ngoài chiếm tới hơn 90% tổng kim ngạch xuất khẩu. Ngay cả trong lĩnh vực dệt
may ở cấp tương đối thấp, các doanh nghiệp trong nước cũng chưa thể đánh bại
các doanh nghiệp có vốn nước ngoài (chủ yếu là các doanh nghiệp Trung Quốc). Chỉ
trong lĩnh vực xuất khẩu các ngành chế biến nông sản và thủy hải sản, doanh
nghiệp nội địa của Việt Nam mới có thể áp đảo doanh nghiệp vốn nước ngoài.
Nếu
nghiên cứu sâu hơn sẽ phát hiện ra rằng, chỉ có 13% doanh nghiệp FDI là liên
doanh, còn lại là 100% vốn đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh đầu tư nước ngoài
bị siết chặt, Việt Nam khó có thể nuôi dưỡng được các doanh nghiệp nội địa có đủ
năng lực cạnh tranh. Cơ cấu kinh tế hiện nay của Việt Nam giống như một trạm
trung chuyển sản xuất cho các doanh nghiệp có vốn nước ngoài ở Đông Nam Á và để
lại rất ít không gian cho các doanh nghiệp trong nước. Nhiệm vụ tham gia và cạnh
tranh toàn cầu còn khó thực hiện hơn nữa.
Do
vậy, khó có thể coi Việt Nam là “học sinh xuất sắc” trong lớp học mô hình Đông
Á. Rõ ràng rằng, Việt Nam đã không sao chép đúng một vài vấn đề lớn.
02.
Đầu
tiên là chi tiêu R&D có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cấp công nghiệp.
Đây
là biểu đồ về tỷ trọng đầu tư cho R&D trong GDP của 4 nước: Nhật Bản, Hàn
Quốc, Việt Nam và Trung Quốc (không bao gồm Hồng Kông, Macao và Đài Loan). Có
thể thấy rõ khoảng cách giữa Việt Nam và 3 nước còn lại là rất rõ ràng. Nó là một
đường thẳng trong một thời gian dài, vẫn nằm ở đáy và khoảng cách này vẫn chưa
được thu hẹp mà ngày càng bị nới rộng, ngay cả khi nền kinh tế đã cất cánh.
https://nghiencuuquocte.org/wp-content/uploads/2024/09/RD-Vietnam.jpg
Năm
2023, đầu tư cho R&D của Việt Nam chỉ chiếm 0,43% GDP. Trong mối tương quan
với 4,91% của Hàn Quốc, 3,3% của Nhật Bản, 3,96% của Đài Loan, 2,43% của Trung
Quốc đại lục, 0,95% của Malaysia và 0,65% của Ấn Độ, Việt Nam chỉ nhỉnh hơn một
chút so với một nước sản xuất khác là Mexico (0,27%) và chỉ tương đương với
trình độ của Trung Quốc vào đầu những năm 1990.
Hãy
lấy ví dụ về một trường hợp mà ngay cả chính người Việt cũng phải tiếc nuối, đó
là Orion Hanel, doanh nghiệp liên doanh lớn nhất Việt Nam.
Doanh
nghiệp này thành lập vào năm 1993, là liên doanh do doanh nghiệp Hàn Quốc và Việt
Nam cùng góp vốn. Vào thời điểm đó, doanh nghiệp này sản xuất bóng đèn hình và
phát triển khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, sau năm 2000, khi toàn bộ ngành công nghiệp
chuyển đổi sang LCD, Orion Hanel đã không kiên quyết đầu tư mạnh mẽ vào nghiên
cứu và phát triển màn hình, cuối cùng đã hoàn toàn tụt lại phía sau rồi tuyên bố
phá sản vào năm 2009.
Trên
thực tế, cũng trong năm 2009, khi mà khu nghỉ dưỡng của Vingroup ở Nha Trang
thường xuyên “cháy” phòng và Sun Group đang xây dựng dự án quy mô lớn ở Đà Nẵng,
thì Việt Nam lại để doanh nghiệp liên doanh lớn nhất của mình phá sản. Nói một
cách đơn giản, điều này tương đương với việc vào lúc Evergrande, Sunac đang
phát triển điên cuồng thì Trung Quốc lại để SAIC Motor phá sản. Trong con mắt
người Trung Quốc, có lẽ đây là điều khiến người ta phải kinh ngạc.
Kết
quả, Việt Nam hiện là quốc gia lắp ráp TV lớn trên thế giới nhưng mức giá mà
người tiêu dùng phải chi trả cho TV lại cao hơn ở Trung Quốc. Dù là thị trường
trong nước hay thị trường xuất khẩu thì cũng đều là “địa bàn” của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như Samsung, TCL và LG. Việt Nam không có chỗ đứng
trong lĩnh vực màn hình ở thượng nguồn và chỉ có thể kiếm được chi phí lắp ráp ở
cấp thấp.
Một
số người có lẽ sẽ đặt ra câu hỏi: Nếu Việt Nam có nhiều doanh nghiệp có vốn nước
ngoài đến vậy, chẳng lẽ không có chút lực đẩy nào đối với các doanh nghiệp
trong nước?
Hãy
lấy Samsung làm ví dụ và cũng sử dụng dữ liệu để đánh giá. Samsung Electronics
là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam. Giá trị sản xuất
tại Việt Nam của họ từng chiếm đến 28% GDP của nước này. Doanh nghiệp này tuyển
dụng gần 100.000 nhân viên tại Việt Nam, có 1.600 xe buýt đưa đón nhân viên đi
làm mỗi ngày. Vậy Samsung có bao nhiêu nhà cung cấp bản địa ở Việt Nam?
Theo
danh sách các nhà cung cấp được Samsung Electronics công bố năm 2023, doanh
nghiệp này có tổng cộng 103 nhà cung cấp cốt lõi trên toàn thế giới, 27 trong số
đó có cơ sở sản xuất tại Việt Nam và có thể cung cấp tại bản địa. Tuy nhiên,
trong số 27 doanh nghiệp này, có 23 doanh nghiệp Hàn Quốc, 2 doanh nghiệp Nhật
Bản và 2 doanh nghiệp Trung Quốc. Không có bất kỳ doanh nghiệp bản địa nào của
Việt Nam.
Lẽ
nào không có bất kỳ doanh nghiệp Việt Nam nào lọt vào chuỗi cung ứng của
Samsung? Cũng không hẳn vậy, ba công ty Việt Nam sau đây là nhà cung cấp bản địa
khá lớn của Samsung tại Việt Nam:
Ngân
Hà Printing (in bao bì)
Phước
Thành Plastic (linh kiện nhựa)
Goldsun
(linh kiện nhựa)
Có
thể thấy, các doanh nghiệp bản địa của Việt Nam về cơ bản chỉ có thể cung cấp hộp
đựng và linh kiện nhựa cho Samsung.
Giáo
sư Thi Triển kể câu chuyện sau trong cuốn Lan tỏa: Ông đến thăm Nguyễn Đức
Thành (tên tiếng Anh là Felix), viện trưởng Viện Kinh tế và Chính sách thuộc Đại
học Quốc gia Hà Nội và là một chuyên gia về kinh tế Việt Nam. Trong cuộc trò
chuyện giữa hai người họ, có một đọan như sau:
Tôi
hỏi ông: “Việt Nam đang thu hút các ngành sản xuất một cách mạnh mẽ, vậy Việt
Nam có chính sách công nghiệp của riêng mình không?”
Điều
khiến tôi kinh ngạc là Felix đã khẳng định thẳng thừng rằng: “Chúng tôi không cần
chính sách công nghiệp vì chúng tôi đã có Quảng Châu rồi!”
Tôi
choáng váng: “Ông nói có Quảng Châu là có ý gì?”
“Nếu
thiếu thứ gì đó trong quá trình sản xuất, chúng tôi có thể đến Quảng Châu để
mua. Đâu cần đến chính sách công nghiệp”.
Quả
là rất thuận tiện khi đến Quảng Châu để mua sắm – khoảng cách từ Quảng Châu đến
Hà Nội là 850 km, trong khi khoảng cách từ Hà Nội đến TP.HCM là 1.150 km. Tuy
nhiên, “Quảng Châu” ở đây chỉ vùng duyên hải phía Đông Nam Trung Quốc tiếp giáp
với Việt Nam, nơi đây có chuỗi công nghiệp hoàn chỉnh nhất thế giới. Nếu Việt
Nam bằng lòng với việc chỉ làm lắp ráp thì đúng là không cần hỗ trợ cho chuỗi
cung ứng bản địa.
Câu
chuyện này nghe có chút giống như chuyện đùa, nhưng giả dụ đối phương không
kiêm chức vụ trong Cục Chiến lược, vậy thì điều này hẳn đã phản ánh nhận thức của
một số người Việt Nam về chuỗi cung ứng bản địa. Tuy nhiên, nếu các doanh nghiệp
bản địa của Việt Nam tiếp tục vắng mặt trong các công đoạn cốt lõi của chuỗi
công nghiệp, nền kinh tế Việt Nam sẽ chỉ có thể là phần mở rộng của chuỗi kinh
tế Trung, Nhật, Hàn, chứ không thể là đối thủ cạnh tranh độc lập với ba nước
này. Giới hạn trên của sự phát triển đã bị khóa chặt.
Thế
nhưng lịch sử đầy rẫy những điều trớ trêu. Sau khi Việt Nam bỏ lỡ hai cơ hội
chiến lược liên tiếp, một miếng bánh khổng lồ lại rơi vào tay nước này.
03.
Năm
2018, cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung bùng nổ và Việt Nam trở thành một trong những
nước được hưởng lợi nhất từ đó.
Năm
2016, trước khi cuộc chiến thương mại nổ ra, Việt Nam đã đề xuất chiến lược
“ngoại giao cây tre”, nghĩa là gốc rễ phải vững chãi nhưng phần ngọn thì phải
linh hoạt, uyển chuyển trước gió giống như cây tre. Dựa trên ý tưởng này, Việt
Nam đã ký kết các hiệp định thương mại tự do với nhiều quốc gia. 16 FTA mà Việt
Nam tham gia chiếm tới 90% GDP thế giới và bao trùm các nền kinh tế chính trên
toàn cầu.
Quan
trọng hơn, nhằm lách qua rào cản thương mại, các doanh nghiệp Trung Quốc đang đổ
xô vào Việt Nam với tốc độ chưa từng thấy. Theo trang web của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư Việt Nam, trong 6 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc đại lục đã vượt qua Hàn Quốc
về số dự án được phê duyệt mới, chiếm 29,1%, và con số này chưa bao gồm tỷ trọng
“mượn danh” Hồng Kông và Singapore.
Mượn
lời của một ông chủ từng sang Việt Nam: Các doanh nghiệp Trung Quốc đang điên
cuồng gửi vốn, nhà máy, đơn hàng, công nghệ và nhân tài sang Việt Nam. Trong 6
tháng đầu năm nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam
tăng trưởng tới 20,6%. Nước nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc và nước
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Mỹ. Nước này kiếm được một khoản lớn “phí
quá cảnh”.
Liệu
Việt Nam có nắm bắt cơ hội thứ ba này và chuyển hóa sản lượng đầu ra từ Trung
Quốc thành sự trỗi dậy của các doanh nghiệp trong nước?
Cũng
chính vào lúc đề xuất “ngoại giao cây tre” năm 2016, Việt Nam đã ban hành “Quy
hoạch tổng thể ngành điện tử”, trong đó đề xuất rõ ràng việc tạo ra 500.000 việc
làm mới, “trong đó hầu hết là kỹ sư, kỹ thuật viên và quản lý cấp trung”, và “bổ
sung những việc làm này thông qua phát triển năng lực nghiên cứu bản địa”.
Mục
tiêu là mục tiêu, Việt Nam sẽ lựa chọn con đường nào để thực hiện nó? Mặc dù mô
hình của Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc có những điểm tương đồng nhưng cũng tồn
tại nhiều điểm khác biệt:
1.
Mô
hình Nhật Bản: Thực thi mạnh mẽ các chính sách và trợ cấp công nghiệp, phát triển
hệ thống công nghiệp một cách độc lập, đồng thời dùng “giá trị địa chính trị” để
đổi lấy sự ưng thuận ngầm của phương Tây (chủ yếu là Mỹ) đối với chính sách và
trợ cấp.
2.
Mô
hình Hàn Quốc: Sử dụng mô hình chaebol (tài phiệt) để tập trung đột phá ở một số
ngành có giá trị gia tăng cao, đồng thời sử dụng “giá trị địa chính trị” để đổi
lấy tư cách xâm nhập những thị trường nhất định.
3.
Mô
hình Trung Quốc: Học hỏi Nhật Bản, Hàn Quốc về chính sách công nghiệp, phát triển
hệ thống công nghiệp một cách độc lập, đồng thời xây dựng thị trường nội địa có
tính thống nhất và sử dụng việc mở cửa thị trường quy mô lớn để loại bỏ một số
thế lực đối địch.
Mặc
dù đáp án ở ngay trước mắt nhưng đối với Việt Nam, “thời thế nay đã khác”.
Một
mặt, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã chặn đứng nhiều ngành công nghiệp, khiến
các nước lạc hậu khó bắt kịp hơn gấp bội; mặt khác, vào thời đại mà Trung, Nhật,
Hàn theo “mô hình Đông Á”, toàn cầu hóa vẫn là một xu hướng không thể ngăn cản.
Nhưng trong bối cảnh chống toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam khó có thể sao chép
hoàn toàn chính sách công nghiệp của Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trên
thực tế, chính bởi ngành công nghiệp của Việt Nam tập trung vào công đoạn lắp
ráp và có tương đối ít sự hỗ trợ công nghiệp ở cấp chính phủ nên nước này mới
có thể thiết lập thành công quan hệ thương mại tự do với rất nhiều thị trường
nước ngoài. Nếu hiện giờ Việt Nam quay trở lại con đường trợ cấp và hỗ trợ công
nghiệp, nhiều khả năng sẽ bị thiết lập các rào cản thương mại, từ đó ảnh hưởng
đến mô hình thu phí quá cảnh hiện tại.
Vì
vậy, con đường khả dĩ nhất mà Việt Nam có thể lựa chọn hiện nay là mô hình
chaebol của Hàn Quốc, cũng chính là mô hình tài phiệt.
Cái
gọi là mô hình tài phiệt, chỉ sự hỗ trợ cho các ông trùm nắm trong tay nhiều mảng
kinh doanh khác nhau. Chính phủ trợ cấp cho “bộ phận phi thương mại” của một
doanh nghiệp lớn thông qua “trợ cấp không liên quan”, sau đó doanh nghiệp chuyển
tiền tới “bộ phận thương mại” thông qua phân bổ theo chiều ngang, từ đó có được
khả năng đầu tư quy mô lớn nhằm đạt được mục tiêu chuyển đổi theo định hướng.
Hãy
lấy một ví dụ. Vào thời điểm đó, chính phủ Park Chung-hee của Hàn Quốc muốn
phát triển mạnh mẽ ngành đóng tàu nhưng không muốn các đối thủ chính là Nhật Bản
và châu Âu nói ra nói vào, vậy nên đã tìm đến Tập đoàn Hyundai, trợ cấp cho mảng
cơ sở hạ tầng – một “bộ phận phi thương mại” – và cung cấp cho họ các đơn hàng
đường cao tốc khổng lồ. Thông qua cuộc chuyển đổi, Tập đoàn Hyundai đã chuyển
sang ngành đóng tàu trên quy mô lớn và cuối cùng dựng nên công ty đóng tàu át
chủ bài Hyundai Heavy Industries của Hàn Quốc.
Mô
hình Hàn Quốc dường như là câu trả lời duy nhất. Vậy cần hỗ trợ doanh nghiệp
nào trở thành tài phiệt? Vingroup vào thời kỳ đầu rõ ràng là “kẻ được chọn”.
Nhìn
vào báo cáo tài chính mới nhất của Tập đoàn Vingroup, có thể thấy tập đoàn này
tham gia vào tất cả các lĩnh vực như bất động sản, bán lẻ, công nghiệp, công
nghệ, ô tô… Người Việt Nam không chỉ có thể mua ô tô Vingroup, đến các khu nghỉ
dưỡng, mua sắm tại trung tâm thương mại và sử dụng thanh toán điện tử của
Vingroup, mà còn có thể đến các bệnh viện và trường học của Vingroup để chữa bệnh
và học tập.
Sau
khi người sáng lập tập đoàn, Phạm Nhật Vượng, kiếm được hũ vàng đầu tiên nhờ
bán mì ăn liền ở Đông Âu, ông trở lại Việt Nam vào năm 2000 và nhận được sự hỗ
trợ toàn diện từ chính phủ Việt Nam, từ đất đai, tín dụng cho đến chính sách.
Thậm chí, khi lãnh đạo Việt Nam sang thăm Lào cách đây không lâu, họ đã mang
theo 20 chiếc xe điện VinFast để làm quà cho nước bạn.
Chỉ
khi trực tiếp đến Việt Nam, bạn mới cảm nhận được sự hiện diện khắp nơi của
Vingroup. Vào cuối tháng 7, tôi có một bài phát biểu ở Việt Nam, địa điểm là
tòa Landmark 81 cao 461 mét, công trình mang tính biểu tượng của TP.HCM. Tòa
nhà cao thứ hai Đông Nam Á này là “trung tâm Thượng Hải” của TP.HCM và các căn
hộ cao cấp nằm bên cạnh (tương đương với Tomson Riviera) đều thuộc về Vingroup
đang ở thời hưng thịnh.
Vì
vậy, tuy mẫu xe điện VinFast được nêu ở phần đầu lỗ tới 2,3 tỷ USD vào năm 2023
nhưng mảng kinh doanh bất động sản và bán lẻ của Vingroup vẫn đang liên tục hái
ra tiền. Trong bối cảnh bất động sản Việt Nam suy giảm vào năm ngoái và án tử
hình của bà trùm bất động sản Trương Mỹ Lan, hoạt động kinh doanh bất động sản
năm 2023 của Vingroup đã đi ngược lại xu hướng và tăng trưởng 49%, lợi nhuận
cũng tăng 14%. Có thể coi đây là một “phép màu trong kinh doanh”.
Dù
mô hình chaebol là liều thuốc độc nhưng đối với Việt Nam, có lẽ không uống cũng
không được.
Chỉ
khi bù đắp được những lỗ hổng của chuỗi công nghiệp trong nước, Việt Nam mới có
thể thực sự trở thành đối thủ của Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc trong một số
ngành công nghiệp. Tuy nhiên, nếu mô hình chaebol không hoạt động, ông Phạm Nhật
Vượng sẽ trở thành ông Hứa Gia Ấn, tức là sẽ không có Samsung, Sony, Toyota hay
Huawei, Xiaomi, BYD phiên bản Việt Nam và nước này chỉ có thể tiếp tục đóng vai
trò là cơ sở sản xuất.
Vận
mệnh của Việt Nam quả thực đã khởi sắc trong hai năm qua, nhưng không còn đủ thời
gian nữa rồi. Năm 2023, dân số Việt Nam đã vượt mốc 100 triệu người, tổng tỷ suất
sinh cũng đã giảm xuống dưới mức 2. Cùng nằm trong vòng văn hóa Nho giáo, Việt
Nam cũng không thể tránh khỏi những căn bệnh dai dẳng về giá nhà đất, sự trì trệ
và suy giảm tỷ suất sinh. Chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.
Thực
ra đây mới là cơ cấu thực sự của nền kinh tế Việt Nam: Một mặt, được hưởng lợi
lớn từ lợi thế địa lý, có lợi thế lớn về chi phí lao động, cả nước vẫn đang cất
cánh và đời sống vật chất của người dân vẫn còn nhiều không gian phát triển.
Nhưng mặt khác, nền kinh tế còn tồn tại những bất cập về cơ cấu, quá phụ thuộc
vào đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp nội địa đang tụt hậu nghiêm trọng.
Còn phải quan sát xem liệu họ có vượt qua được “mức trần” hay không.
Sự
thật này cũng cho chúng ta biết rằng: Có một số bài tập tưởng chừng như khá dễ
sao chép nhưng thực ra lại rất khó thực hiện. Chiếc bánh nâng cấp công nghiệp
chưa bao giờ từ trên trời rơi xuống.
04.
Trên
thực tế, tình hình hiện nay ở Việt Nam mang lại nhiều yếu tố thuận lợi cho
Trung Quốc.
Một
mặt, do sự yếu kém của chuỗi cung ứng trong nước, Việt Nam sẽ tiếp tục phụ thuộc
nhiều vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc, điều này được thể hiện rõ qua tỷ trọng
các nước nhập khẩu vào Việt Nam. Điều này cho phép Trung Quốc duy trì được giá
trị gia tăng cao của chuỗi công nghiệp và các công nghệ cốt lõi. Nhìn vào mức
chi cho R&D hiện dưới 0,5% của Việt Nam, sự phụ thuộc này sẽ còn kéo dài
trong nhiều năm nữa.
Mặt
khác, chính sách “ngoại giao cây tre” và chính sách công nghiệp yếu kém của Việt
Nam đã cho phép nhiều nước phương Tây mở rộng cánh cửa với họ, khiến nước này
trở thành trạm trung chuyển quan trọng cho ngành sản xuất của Trung Quốc, đây
là điều có ý nghĩa rất lớn đối với nhiều doanh nghiệp Trung Quốc. Ví dụ, Mỹ gần
đây đã khôi phục lại việc đánh thuế đối với các sản phẩm quang điện của Việt
Nam. Bên phải chịu ảnh hưởng lớn nhất từ việc này không phải các doanh nghiệp
Việt Nam, mà là các doanh nghiệp Trung Quốc.
Do
chi phí trong nước tăng, việc chuyển giao công nghiệp là điều khó tránh khỏi,
nhưng vấn đề là chuyển tới đâu? Nó sẽ được chuyển giao sang Việt Nam, quốc gia
vốn phụ thuộc vào chuỗi công nghiệp của Trung Quốc, nằm trong phạm vi ảnh hưởng
địa chính trị của Trung Quốc và khó có thể xây dựng được doanh nghiệp nội địa
trong ngắn hạn? Hay nó sẽ được chuyển sang Ấn Độ, quốc gia không ngừng “kiếm
chuyện” về chính trị, tìm mọi cách để hạn chế các doanh nghiệp Trung Quốc và
điên cuồng hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước? Tôi tin rằng không khó để lựa chọn
câu trả lời.
Trung
Quốc quả thực không còn trẻ nữa, nhưng chúng ta thực sự không muốn nhìn thấy
dáng vẻ trước đây của chính mình trong vô số kẻ theo sau.
----------------------------
Sự phụ thuộc quá mức của Việt Nam vào xuất khẩu và FDI
Tác
giả: Lê Hồng Hiệp
Hiệp
định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EUVFTA) có hiệu lực từ ngày 1 tháng 8 năm
2020 là hiệp định mới nhất trong chuỗi các hiệp định thương mại tự do mà Việt
Nam đã ký kết nhằm thúc đẩy xuất khẩu. Hiệp định “sinh đôi” … Continue reading Sự phụ
thuộc quá mức của Việt Nam vào xuất khẩu và FDI
No comments:
Post a Comment