Bình luận của blogger Nguyễn Nhơn
2024.09.28
Ruộng
bậc thang ở Yên Bái hôm 28/11/2021 (Nhac
NGUYEN / AFP)
GS.TS
Hoàng Văn Hoa (nguyên Viện trưởng Viện đào tạo quốc tế, Trường Đại học Kinh tế
quốc dân Hà Nội) kể: “Từ những năm 1995 - 2005, khi nghiên cứu về giảm nghèo
cho đồng bào các dân tộc vùng miền núi phía Bắc, các chuyên gia đã đề xuất: đối
với khu vực này không đặt nặng vấn đề tăng trưởng kinh tế, mà cả nước có thể
nuôi nhân dân vùng này để họ trồng rừng và bảo vệ rừng. Cụ Hoàng Đức Nghi lúc
đó là Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc và Miền núi rất tâm đắc quan điểm này. Rốt cuộc
cũng chẳng ai thực hiện.
Đúng
là về lý thuyết, kiến nghị này không được thực hiện. Trong các khoản thuế phí
và đóng góp định kỳ cũng như đột xuất của hơn trăm triệu dân Việt Nam, không có
khoản nào tên là “Phí nuôi dưỡng người dân miền núi” cả.
Nếu
có một khoản phí như thế thì lâu nay chúng ta-cả Nhà nước và dân-đã tiết kiệm
được hơn rất nhiều.
Nhưng,
người dân miền núi thực sự cần được cả nước nuôi, hay cần điều gì khác?
Phá
rừng thì chết, không phá thì đói
Cho
đến tận bây giờ, người miền núi vẫn hàng ngày vào rừng đặt bẫy chim và thú, xuống
suối bẫy cá, trèo cây lấy mật ong, hái phong lan, đào cây thuốc, chặt gỗ, chặt
vầu, luồng, tre thuê, hái măng… Bắp lúa trồng được bao nhiêu ăn bấy nhiêu, thiếu
ăn có Nhà nước cấp gạo.
Rừng
nguyên sinh bị phá thì Nhà nước… trồng rừng sản xuất!
Rốt
cuộc cả Nhà nước và dân miền núi đều bị mắc vào một cái vòng luẩn quẩn vô tận:
Không phá rừng thì dân đói. Mà phá rừng thì dân chết.
Mấy
chục năm trước giải pháp trồng rừng sản xuất được các địa phương đón nhận như một
vị cứu tinh. Quả thật nó đã tạo được nguồn thu khá dồi dào cho cả đời sống người
dân miền núi lẫn nền kinh tế địa phương. Nhưng sau vài chục năm liên tiếp phủ
kín vô vàn cánh rừng nguyên sinh bằng những vườn cây tràm, keo, bạch đàn, bồ đề,
cao su…, thiệt hại ngày càng lớn về người và của do thiên tai đã khiến các lãnh
đạo địa phương phải chùn lại để suy nghĩ.
Nhà
nước kêu gọi trồng rừng gỗ lớn, phục hồi rừng giàu, hướng đến bán các sản phẩm
giá trị cao từ rừng… Thế nhưng đó là câu chuyện của ít nhất ba mươi năm. Trong
ngắn hạn, người dân miền núi vẫn còn bị tắc nghẽn giữa mong muốn có đời sống
kinh tế thảnh thơi như người miền xuôi và khó khăn trùng điệp của vùng đất quê
hương.
Chỉ
cần đường
Nhiều
năm trước, vô tình một lần tôi được ăn gạo nương, đúng thứ gạo nương được truyện
cổ tích của nhiều dân tộc thiểu số mô tả: to đẹp như con ong, mẩy óng, vừa dẻo
vừa giòn, một va chạm xúc giác đặc biệt mà nhiều loại gạo danh tiếng khác của
miền xuôi không có.
Rồi
trên một bản xa tít người dân tộc Thái trắng Sơn La, tôi được đãi bữa xôi sáng
do chính tay những phụ nữ dân tộc Thái đồ lên với thứ lá rừng nào đó chỉ họ biết.
Gạo nếp lần này không có gì đặc biệt, chỉ là giống nếp bình thường người dân vẫn
trồng. Nhưng thứ lá rừng kia khiến mâm xôi xanh biếc và thơm nồng ngai ngái, một
mùi thơm quyến rũ lạ lùng. Nó không bốc lên ngào ngạt mà như ẩn như hiện, không
giống mùi hương liệu mà là mùi của ban mai giữa thiên nhiên tràn trề tươi mới.
Ngay
cả chén chẩm chéo để chấm xôi cũng đặc biệt trong sự đơn giản. Nó được giã tay
với muối hột, ớt trái chín đỏ và ớt còn xanh, cùng với lá ớt rừng. Vị cay, the,
thơm nồng, chút mặn mòi quyện lấy miếng xôi nguyên vị, sao mà ngon thấu đến tận
tế bào.
Và
trong một đêm uống rượu cần với người Re nơi miền núi tít tắp Quảng Ngãi, người
dân chỉ cho tôi vài “bí quyết”: rượu ủ bằng men lá và ủ bằng nguyên hạt thóc chứ
không phải bằng gạo đã xay giã trắng. Hương vị của nó là thứ mà người ta chỉ cần uống một lần trong đời rồi sẽ mãi không
quên: vẫn là cái mùi thơm ngai ngái đặc biệt của lá cây, ban đầu thì nhạt như
nước suối nhưng vị hậu ngọt và cay thơm tưởng như thoang thoảng mà sâu không tưởng,
dụ hoặc uống mãi uống hoài, cho đến khi cơn say lan dịu dàng mà không thể ngăn
cản từ bên trong ra thả thân ta ngả nhẹ uống mảnh chiếu trải trên nhà sàn khi
tay vẫn đang mải vít ống cần. Rồi cứ thế ngủ thiếp đi trong hơi lửa ấm và khí
núi lành lạnh xen lẫn, thẳng tròn một giấc đến tận sáng hôm sau bừng dậy khỏe
khoắn, sáng tươi, không hề mỏi mệt, không hề nhức đầu.
Có
vô số đặc sản của miền núi, từ miền núi, do người dân miền núi tự tay sản xuất
và chế biến sẽ giúp người dân miền núi sống tốt ngay tại bản làng giữa thung
lũng của mình, nhất là khi Internet giúp bổ sung những kiến thức cần thiết để
kinh doanh và kết nối với người tiêu dùng.
Hình
chụp hôm 26/10/2018: một phụ nữ Hmong là Va Thi May đang xem điện thoại di động
khi bán hàng ở Đồng Văn, Hà Giang. Nhac NGUYEN / AFP
Cho
nên từ vài năm nay, các địa phương bắt đầu chú ý đến sản phẩm OCOP. Nó là một
chương trình quốc gia, nghĩa là “Mỗi xã một sản phẩm”. Điểm sáng rực của OCOP
là phát huy được sự phong phú đa sắc của các sản vật nông nghiệp và phi nông
nghiệp trên khắp dải đất (quá dài) của Việt Nam, đồng thời cũng hạn chế được
tính bất ổn, manh mún, chất lượng không đồng đều của chúng.
Về
lý thuyết, chính phủ kiểm soát và bảo đảm chất lượng của sản phẩm OCOP khi bán
ra thị trường.
Với
sự phát triển của thương mại điện tử, một nông dân ủ rượu ngô men lá ở Na Hang
(Tuyên Quang) có thể bán thẳng sản phẩm cho người dùng ở tận Cà Mau. Một chị
dân tộc Cor ở miền núi Trà Bồng (Quảng Ngãi) có thể trở thành đối tác của doanh
nghiệp để bán thẳng tinh dầu gừng gió đến khách hàng Hà Nội. Dân Lào Cai Yên
Bái bán thịt trâu gác bếp cho dân nhậu Hà Nội, Sài Gòn. Có hàng ngàn mặt hàng đặc
sản nho nhỏ, sản lượng thấp, chất lượng và số lượng thay đổi theo mùa, khu trú
nhưng đặc sắc ở khắp các làng xã nông thôn, miền núi, hải đảo. Hiện nay đã có đến
gần 10.000 loại sản phẩm OCOP khắp cả nước.
Đó
là một hướng đi sáng sủa và phù hợp với xu thế, phù hợp lối sống của người Việt
vốn thích ăn uống, thích món lạ, thích sản phẩm nguyên chất từ thiên nhiên.
Đã
có 20 sản phẩm OCOP đạt tiêu chuẩn quốc tế. Một trong số đó là chè/trà shan tuyết
của người Dao đỏ ở Hà Giang, giá bán nhiều triệu đồng một ký.
Có
lẽ không ngoa ngôn cho lắm khi nói bây giờ, với internet, người miền núi chẳng
cần gì, chỉ cần đường.
Đường
giao thông là yếu huyệt của miền núi. Ước mơ lớn nhất của người miền núi là có
những con đường giao thông thông suốt và an toàn. Chỉ cần có đường, miền núi sẽ
trở thành một mảnh của thiên đàng.
Nhưng
địa hình miền núi quá khó khăn, thời tiết thất thường và ngày càng cực đoan.
Ngân sách Nhà nước cấp thiếu hụt. Nạn tham nhũng và bệnh thành tích khiến hệ thống
giao thông miền núi bị rút ruột nhiều nhất, khiến những con đường, chiếc cầu
làm ra có chất lượng rất xấu, xi măng sắt thép mà mỏng manh như giấy. Nên
suốt nhiều chục năm nay, ước mơ của đồng bào cứ như đốm lửa trên núi, nhìn thấy,
nghe thấy mãi (trên tivi) nhưng không biết bao giờ mới chạm được tay vào.
Không
có đường thì rừng núi sẽ biến thành nhà ngục xanh của người bản địa. Không có
đường thì không có điện, không có giao thương, không có trường học, không có kiến
thức. Người miền núi không được học hành, ít nhất là không học thông viết thạo
quốc ngữ thì dù có muốn bán sức đi làm những công việc rẻ mạt nhất ở thành thị
cũng không có cửa. Sẽ dễ dàng làm những việc phạm pháp như bán ma túy, trồng
thuốc phiện, cần sa. Sản vật địa phương dù rất hiếm quý cũng chỉ có thể bán thô
cho vài thương lái cò con với giá rẻ mạt, mà cả người sản xuất lẫn thương lái
đa phần đều không hiểu hết, không đánh giá hết giá trị.
Đừng
chỉ mê mẩn miền núi qua những góc ảnh đẹp như tiên cảnh nhưng rỗng bụng như ruộng
bậc thang nữa. Hãy để người dân miền núi bán vẻ đẹp đó để lấy tiền.
Lại
càng đừng đối xử với miền núi như những dân tộc thấp kém ngơ ngác luôn luôn cần
cứu trợ và từ thiện quanh năm, từ hạt gạo cho đến manh quần tấm áo cũ. Người miền
núi cường tráng và giàu tiềm năng, giàu nội lực hơn cái cách họ bị người dưới
xuôi đánh giá nhiều lắm. Hãy làm những con đường không cần quá to rộng nhưng an
toàn và thông suốt đến các thôn bản, rồi những đứa con của thiên nhiên sẽ chứng
tỏ cho thấy họ giàu có và mạnh mẽ thế nào.
-----------------------------------------------------------------
*
Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do.
*
Nguyễn Nhơn là nhà báo Việt Nam hiện đang sống ở Thái Lan. Nhà báo Nguyễn Nhơn
quan tâm đến tình hình đất nước và viết nhiều bài về các vấn đề chính trị và xã
hội trong nước.
----------------------
Tin,
bài liên quan
Blog
“Mì
gói có rất nhiều dinh dưỡng” - câu chuyện càng lên cao càng đuối sức
Cây
đổ giòn vang như tiếng pháo
No comments:
Post a Comment