Chủ nghĩa tư bản đang vận hành ở đâu –
Thế giới có thể học được gì từ Thụy Sĩ, Đài Loan và Việt Nam
Ruchir
Sharma – Foreign
Affairs, 17.9.2024
Đỗ
Kim Thêm dịch
25/09/2024
https://boxitvn.online/?p=91305
Chợ
đêm ở Đài Bắc, Đài Loan, tháng 5 năm 2024. Ảnh: Ann Wang
Sự
bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều
quốc gia giàu và nghèo tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ
nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này
vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu
thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ
công dân nào ở phương Tây. Chỉ hơn 1/3 người Mỹ tin rằng họ sẽ giàu hơn cha mẹ
mình. Tỷ lệ tin tưởng vào chính phủ tiếp tục có xu hướng giảm, ngay cả khi nhà
nước xây dựng một mạng lưới an toàn ngày càng hào phóng. Hiện nay, 70% người Mỹ
nói rằng hệ thống này “cần những thay đổi lớn hoặc phải bị phá bỏ hoàn toàn”,
và các thế hệ trẻ là những người thất vọng nhất. Nhiều người Mỹ dưới 30 tuổi có
quan điểm tích cực hơn về chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản.
Ở
các quốc gia có nền kinh tế mới nổi, thật sốc khi thấy “vùng đất tự do” từ bỏ sự
hoài nghi truyền thống về quyền lực và kế hoạch được tập trung hóa và thay vào
đó thúc đẩy các giải pháp của chính phủ lớn. Nhiều quốc gia trong số này, từ Ấn
Độ đến Ba Lan, vẫn chưa quên những cuộc thử nghiệm đã thất bại của chính họ với
chủ nghĩa xã hội. Họ đã rất ngạc nhiên khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump dẫn đầu
một cuộc nổi loạn chống lại việc thương mại tự do và biên giới mở cửa, và khi
người kế nhiệm ông, Joe Biden, bắt đầu thúc đẩy cái mà Cố vấn An ninh Quốc gia
Jake Sullivan gọi là “tư duy kinh tế ủng hộ cho việc xây dựng”.
Và
họ không còn có thể tìm kiếm cảm hứng từ Trung Quốc nữa. “Phép lạ kinh tế” bắt
đầu sau khi Đảng Cộng sản bắt đầu nhượng quyền cho khu vực tư nhân vào cuối những
năm 1970 đang chững lại dưới thời của nhà lãnh đạo Tập Cận Bình. Trung Quốc đã
quay lại với các phương cách chỉ huy và kiểm soát cũ, trừng phạt các doanh nghiệp
trở nên quá nhiều quyền lực trong mắt đảng cầm quyền. Bị đè nặng bởi nợ nần chồng
chất, dân số lão hóa và nhà nước can thiệp quá mức, nền kinh tế Trung Quốc đã
đi chệch khỏi con đường kỳ diệu.
Tuy
nhiên, khi các quốc gia lớn này dường như đang rút lui khỏi chủ nghĩa tư bản, vẫn
có một số nơi vượt trên đường cong thu nhập, bao gồm Thụy Sĩ, Đài Loan và Việt
Nam, nơi mà chủ nghĩa tư bản vẫn còn vận hành – và những tấm gương của họ đáng
để được noi theo. Các chính phủ của họ coi trọng tự do kinh tế, hạn chế vai trò
của họ trong việc quản lý nền kinh tế và điều tiết doanh nghiệp. Họ nhận ra rằng
nợ công và thâm hụt là những rủi ro nghiêm trọng, vì vậy họ chi tiêu công phí một
cách thận trọng. Họ có xu hướng tránh những hành động thái quá tồi tệ nhất
trong phương cách hiện tại của Hoa Kỳ – chi tiêu quá mức để kích thích nền kinh
tế, chiều chuộng các tập đoàn lớn, bơm tiền vào thị trường tài chính chủ yếu là
để mang lại lợi ích cho các tỷ phú. Trên hết, những câu chuyện thành công của
chủ nghĩa tư bản này duy trì sự cân bằng quan trọng của chính phủ, cung cấp sự
hỗ trợ cho những công dân dễ bị tổn thương nhất mà không thu hẹp quyền tự do
kinh tế.
Nơi
ẩn trú khó tìm ra
Giới
cấp tiến ở Mỹ thường bắt nguồn từ viễn cảnh của họ về thiên đường xã hội chủ
nghĩa ở các nước Bắc Âu như Đan Mạch, Na Uy và Thụy Điển. Đó là những nước giàu
có như Hoa Kỳ, nhưng có đặc điểm về sự phân phối của cải bình đẳng hơn, cung cấp
dịch vụ chăm sóc sức khỏe với giá cả phải chăng và trường đại học miễn phí cho
tất cả mọi người.
Mặc
dù hiếm khi được giới chính trị cánh tả coi là mô hình, nhưng Thụy Sĩ lại giàu
có hơn nhiều so với các nền dân chủ xã hội Bắc Âu và cũng công bằng như vậy. Nền
kinh tế trị giá 700 tỷ đô la của Thụy Sĩ lớn hơn bất kỳ nền kinh tế nào ở Bắc
Âu và cung cấp các chế độ phúc lợi toàn diện, với chính phủ tinh gọn hơn, thuế
suất thấp hơn và ổn định tài chính hơn các nền dân chủ xã hội Bắc Âu – những nền
kinh tế đã phải đối mặt với một số cuộc khủng hoảng tài chính trong quá khứ gần
đây. Thụy Sĩ tự hào có thu nhập trung bình cao hơn, với mức độ bất bình đẳng
thu nhập trở nên chỉ tương đương với Bắc Âu. Tài sản gia đình trung bình ở Thụy
Sĩ là 685.000 đô la, gấp đôi mức trung bình của Bắc Âu. Thụy Sĩ cũng nằm trong
số những quốc gia hạnh phúc nhất thế giới, thường lọt vào top năm trong Chỉ số
cuộc sống tốt đẹp hơn của Tổ chức Vì sự Hợp tác và Phát triển Kinh tế [The
Organization for Economic Cooperation and Development]. Và nó đã hoàn thành tất
cả những điều này với một nhà nước tinh gọn đáng ngạc nhiên: chi tiêu công chiếm
35% GDP, so với 55% ở Thụy Điển.
Hệ
thống y tế Thụy Sĩ yêu cầu cư dân phải mua bảo hiểm từ các nhà cung cấp tư nhân
nhưng trợ cấp cho người nghèo. Các trường đại học đẳng cấp thế giới của họ tính
học phí hàng năm là 1.000 đô la, tính trung bình, giúp cho sinh viên tốt nghiệp
có ít nợ hơn nhiều so với các bạn cùng lứa ở hầu hết các nước phát triển. Trong
khi đó, biên giới tương đối mở giúp cho quốc gia nằm sâu trong nội địa này
thành lò ấp của các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh toàn cầu. 40% dân số là
người nước ngoài.
Thụy
Sĩ xếp thứ hai sau Nhật Bản về “mức độ tinh vi” của hàng xuất khẩu, theo Đài
quan sát về sự phức tạp của nền kinh tế [Observatory of Economic Complexity,
OEC]. Tiền đề của bảng xếp hạng OEC là việc tạo ra các mặt hàng xuất khẩu phức
tạp như y sinh học hoặc phần cứng kỹ thuật số đòi hỏi một loạt các thế mạnh, từ
các trường đại học chất lượng đến các trung tâm nghiên cứu mà nó thúc đẩy tiến
bộ kinh tế. Phát triển mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực chính ngoại trừ dầu mỏ, các
công ty Thụy Sĩ chiếm 15 trong số 100 doanh nghiệp hàng đầu châu Âu theo vốn
hóa thị trường chứng khoán, nhiều hơn bất kỳ đối thủ nào của vùng Scandinavia.
Nền
kinh tế Thụy Sĩ cũng là phi tập trung như hệ thống chính trị liên bang của nước
này. Nhiều mặt hàng biểu tượng nhất về xuất khẩu của Thụy Sĩ đến từ các tỉnh
trong nước: các loại dao cho quân đội Thụy Sĩ dùng của Schwyz, đồng hồ của
Bern, pho mát của Fribourg. Các doanh nghiệp nhỏ neo giữ nền kinh tế, chiếm hai
trong số ba việc làm. Chỉ có một trong sáu người Thụy Sĩ là làm việc cho chính
phủ, bằng một nửa mức trung bình của Bắc Âu. Và người Thụy Sĩ thích làm việc
hơn là hưởng phúc lợi nhà nước. Trong cuộc trưng cầu dân ý năm 2016, cử tri Thụy
Sĩ đã cực lực bác bỏ áp mức thu nhập hàng tháng được đảm bảo là 2.500 đô la, mà
giới chỉ trích gọi là “tiền cho không mục đích”.
Trong
thập niên qua, hầu hết các quốc gia giàu có đều chứng kiến phần doanh thu trong xuất
khẩu trên toàn cầu giảm, nhưng của Thụy Sĩ vẫn tiếp tục tăng. Do đó, đồng franc
Thụy Sĩ tăng giá nhanh hơn bất kỳ loại tiền tệ nào khác, nhưng xuất khẩu vẫn
phát triển mạnh. Khách hàng dường như thuận lòng trả nhiều tiền hơn cho các loại
hàng hóa của Thụy Sĩ. Dòng tiền đổ vào đó giúp thúc đẩy cho nền kinh tế.
Chính
sách tài chánh của Thụy Sĩ không phải là không sai lầm. Trong nỗ lực làm chậm sự
gia tăng của đồng franc trong thập niên qua, ngân hàng trung ương đã cắt giảm mạnh
lãi suất. Kết quả là một đợt bùng nổ về cho vay đã đẩy nợ của các doanh nghiệp
tư nhân và hộ gia đình lên tới 280% GDP, một mức cao đầy rủi ro làm tăng nguy
cơ khủng hoảng về tín dụng và ngân hàng trong tương lai.
Thế
giới có xu hướng bỏ qua mô hình Thụy Sĩ, có lẽ là do thanh danh đã lỗi thời của
quốc gia này là thiên đường trốn thuế, nơi mà tài sản bất hợp pháp ẩn nấp sau
các luật nghiêm ngặt về bảo mật ngân hàng. Vào năm 2015, dưới áp lực từ các
chính phủ nước ngoài, Thụy Sĩ đã đồng ý mở cửa các ngân hàng của mình để giám
sát chặt chẽ hơn và nền kinh tế không hề bỏ lỡ một nhịp nào, chứng tỏ rằng
thành công của họ không chỉ nhờ vào các chủ ngân hàng cực kỳ bảo mật.
Mô
hình Thụy Sĩ còn đang che kín trong tầm mắt. Bắc Âu đã bắt đầu di chuyển theo
hướng của Thuỵ Sĩ. Bị tàn phá bởi các cuộc khủng hoảng nợ vào những năm 1990, bắt
đầu từ các lĩnh vực bất động sản và ngân hàng, Thụy Điển đã hạ mức thuế suất
cao nhất và cắt giảm chi tiêu công từ 70% xuống còn 50% GDP. Thụy Điển đã trở
thành một trong số ít các quốc gia phát triển có thặng dư ngân sách, vì vậy họ
đã ở trong một vị thế tài chính vững mạnh khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
xảy ra vào năm 2008. Các quốc gia Bắc Âu khác cũng làm theo. Vào năm 2015, Thủ
tướng Đan Mạch Lars Lokke Rasmussen thậm chí đã thuyết giảng cho cử toạ Hoa Kỳ
là nên thôi nghĩ về Đan Mạch như là “một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hoạch định”.
Đảo
khởi nghiệp
Sau
Đệ nhị Thế chiến, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan được biết đến như là “các phép
lạ châu Á” vì họ đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển nhiều hơn so với
các nước nghèo khác và nhanh chóng vươn lên trong hàng ngũ của các nước giàu.
Các chính phủ có năng lực, hợp tác với ngành công nghiệp để xuất khẩu sản phẩm,
đã dẫn đến những phép lạ này. Việc Hàn Quốc dắt dẫn Samsung và Hyundai, hiện
nay là các tập đoàn lớn, là một ví dụ điển hình.
Ngày
nay, Đài Loan là quốc gia hấp dẫn nhất trong số các phép lạ. Lựa chọn để tập
trung vào việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ hơn nhằm sản xuất các linh kiện
cho các doanh nghiệp nước ngoài, thay vì các doanh nghiệp đa quốc gia bán sản
phẩm dưới thương hiệu toàn cầu của riêng họ, trong những năm gần đây, Đài Loan
đã vượt qua Hàn Quốc và Hoa Kỳ để trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về chip
máy tính tiên tiến, nền tảng quan trọng cho trí tuệ nhân tạo và các ngành công
nghiệp khác trong tương lai.
Cho
đến những năm 1970, Đài Loan chủ yếu là nước xuất khẩu hàng dệt may và may mặc.
Sau đó, giống như nhiều quốc gia đồng đẳng khác, Đài Loan bắt đầu hiện đại hóa
nền kinh tế bằng cách sao chép nền công nghệ của phương Tây. Năm 1980, chính phủ
Đài Loan, học theo thung lũng Silicon, bắt đầu thành lập “công viên khoa học”
trên khắp lãnh thổ để đảm bảo tăng trưởng cân bằng theo khu vực, mỗi công viên
đều có khuôn viên trường đại học riêng. Các công viên này trở thành nơi ươm mầm
cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, thu hút nhân tài từ các trường đại học và sử
dụng tiền thưởng của chính phủ để thu hút những người nước ngoài giàu kinh nghiệm
hồi hương. Một số doanh nghiệp khởi nghiệp này sẽ phát triển với quy mô lớn.
Để
xây dựng ngành công nghiệp chip, Đài Loan đã tuyển dụng Morris Chang, một sinh
viên tốt nghiệp trường MIT và là cựu chuyên gia thâm niên của Texas
Instruments. Cũng giống như Đài Loan từng sản xuất đồ chơi bằng nhựa cho những
gã khổng lồ toàn cầu như Mattel, Chang đã tạo ra một “xưởng đúc nguyên chất” –
một nhà sản xuất chip theo hợp đồng. Ông đã đặt cược hàng tỷ đô la vào việc xây
dựng các nhà máy chế tạo chip, tạo nên vị thế dẫn đầu không thể vượt qua so với
các quốc gia đối thủ. Những con chip nhỏ nhất và nhanh nhất, không thể thiếu đối
với các công nghệ kỹ thuật số tiên tiến nhất, được chế tạo tại các xưởng đúc.
2/3 số chip đúc được sản xuất tại Đài Loan. Và hầu hết trong số đó đến từ sáng
kiến của Chang, Công ty sản
xuất chất bán dẫn Đài Loan [Taiwan Semiconductor Manufacturing Company, TSMC].
TSMC
là sản phẩm của loại chính sách công nghiệp hiện nay đang được nhiều chính trị
gia phương Tây áp dụng – trong trường hợp của Chang và Đài Loan, được thực hiện
bởi một chính phủ tinh gọn. Chi tiêu công dao động quanh mức 20% GDP, nợ công
khoảng 34% và cứ 30 người lao động thì có một người được nhà nước tuyển dụng; tất
cả đều chỉ là một phần trung bình đối với các nước phát triển khác. Bằng cách hạn
chế vai trò của chính phủ là người chi tiền, người vay nợ, chủ lao động và quản lý, Đài Loan đã tạo ra một nền kinh tế
vượt trội so với sức nặng của mình.
Hiện
là một trong những doanh nghiệp công nghệ lớn nhất thế giới, TSMC đủ giàu để
mua lại những tài năng giỏi nhất của hòn đảo này, khiến những người chỉ trích
trong nước tức giận vì đã rời xa nguồn gốc của Đài Loan là một xã hội bình đẳng
của những doanh nhân nhỏ trên con đường phát triển. Nhưng không giống như những
ông trùm công nghệ Mỹ như Jeff Bezos và Elon Musk, Chang chưa trở thành tâm điểm
của các cuộc biểu tình của công chúng chống lại sự bất bình đẳng giàu nghèo, ít
nhất là một phần vì tài sản ròng của ông khoảng 2 tỷ USD chỉ là con số rất nhỏ
so với khối tài sản khổng lồ của những giám đốc điều hành đó.
Đài
Loan không can thiệp để giải cứu các thị trường tài chính mỗi khi chao đảo hoặc
cứu trợ các ngân hàng và tập đoàn lớn. Trong khi các chính phủ khác ứng phó với
mọi cuộc khủng hoảng tài chính mới bằng các biện pháp cứu trợ ngày càng hào
phóng, Đài Loan đã kiềm chế – ngay cả trong đại dịch COVID-19. Năm 2020, tổng
gói kích thích tài chính và tiền tệ của nước này chỉ chiếm chưa đến 7% GDP, bằng
1/5 mức trung bình của các gói kích thích được thông qua tại Hoa Kỳ, Châu Âu,
Vương quốc Anh và Nhật Bản.
Mặc
dù thuế suất của Đài Loan là điển hình cho một nền kinh tế phát triển, nhưng
thói quen chi tiêu của họ lại khác: ít dành cho các chương trình xã hội và chăm
sóc sức khỏe, tập trung nhiều vào giáo dục và nghiên cứu. Kết quả là năng suất
phi thường. Sản lượng bình quân đầu người ở Đài Loan đã tăng nhanh hơn ở các quốc
gia G-4 hàng năm trong bốn thập niên. Trong bốn năm qua, tốc độ tăng trưởng đã
tăng gấp tám lần. Những thành quả này có thể là do Đài Loan tạo ra một tỷ trọng
cao bất thường trong thị phần GDP – 30 % – từ sản xuất, ngành công nghiệp có
liên quan chặt chẽ nhất đến mức tăng năng suất.
Khi
cố gắng giữ thái độ trung lập, Đài Loan được cho là đã trở thành giải thưởng có
giá trị nhất trong cuộc chiến tranh lạnh đang nổi lên giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Là nhà sản xuất chip máy tính tiên tiến nhất thế giới, Đài Loan là mắt xích
không thể thiếu trong chuỗi cung ứng công nghệ. Nếu không thâm nhập được Đài
Loan, cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đều không thể đạt được tham vọng thống trị công
nghệ trong toàn cầu.
Tuy
nhiên, với vai trò quan trọng này, rủi ro cao hơn cũng đi kèm. Giới phân tích
quốc phòng Hoa Kỳ lo ngại rằng với các nhà máy chế tạo chip tập trung tại đảo
quốc, Đài Loan rất dễ bị tổn thương cao độ bởi tên lửa hoặc lệnh phong tỏa hải
quân từ Trung Quốc đại lục, chỉ cách đó 100 dặm. Đây là nguồn lo lắng dai dẳng
đối với một nơi tương đối nhỏ – và là sự tôn vinh cho những thành công của nơi
này. Đài Loan đã tạo ra một môi trường kinh doanh huy động được các doanh nghiệp
khởi nghiệp song hành với những người khổng lồ và tạo ra khối tài sản lớn, được
phân phối tương đối tốt. Nếu Trung Quốc không thành công trong việc ngăn chặn sự
công nhận quốc tế đối với Đài Loan, mô hình về nền dân chủ theo tư bản chủ
nghĩa của họ sẽ được nghiên cứu rộng rãi hơn.
Một
phép lạ thầm lặng
Sự
trỗi dậy mang tính lịch sử của Trung Quốc chỉ bắt đầu sau khi sự thống trị của
Mao đối với đất nước kết thúc vào cuối những năm 1970 và những người kế nhiệm
ông nới lỏng sự kiểm soát của nhà nước. Khu vực tư nhân nhỏ bé của đất nước đã
phát triển và chiếm hơn một nửa số việc làm ở thành thị và GDP. Khi thị phần
GDP thế giới tăng gấp ba lần lên 15%, Trung Quốc đã tái xuất như một cường quốc
trên toàn cầu. Tuy nhiên, đến cuối những năm 2010, nước này đã tái khẳng định sự
kiểm soát của nhà nước và tăng trưởng chậm lại đáng kể. “Chủ nghĩa tư bản nhà
nước” của Trung Quốc, hiện nay được một số người ở phương Tây ngưỡng mộ, đã nuốt
chửng phép lạ kinh tế của mình.
Ngày
nay, Việt Nam, do một chính phủ cộng sản thực dụng lãnh đạo, trông rất giống với
Trung Quốc trong giai đoạn phép lạ của mình cách đây 20 năm. Với dân số chưa bằng
1/10 Trung Quốc, Việt Nam sẽ không bao giờ có cùng tác động trong toàn cầu,
nhưng điều đó cũng cho thấy chủ nghĩa tư bản có thể vận hành ngay cả dưới chế độ
độc tài, độc đảng.
Bị
tàn phá bởi cuộc nội chiến, đến cuối những năm 1980 Việt Nam đã sống nhờ vào sự
cứu trợ của Liên Xô. Tăng trưởng trì trệ. Lạm phát lên tới 700%. Hà Nội phản ứng
bằng cách mở cửa nền kinh tế nhà nước quản lý cho doanh nghiệp tư nhân, xóa bỏ
các nông trường tập thể và cho thuê đất cho cá nhân, những người lần đầu tiên
được phép bán sản phẩm của mình để kiếm lời, trong nước hoặc nước ngoài. Sản lượng
tăng nhanh. Từ một nước nhập khẩu gạo đang phải chống chọi với nạn đói, Việt
Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo. Ngay cả hiện nay, khi nhiều quốc gia đang
gia tăng rào cản thương mại, Việt Nam vẫn là nhà vô địch cộng sản của thị trường
tự do.
Việt
Nam đã tập trung mọi nguồn lực để xây dựng một cường quốc sản xuất cho xuất khẩu,
rập theo mô hình các cải cách ban đầu của Trung Quốc. Để ổn định tiền tệ và kiểm
soát lạm phát, Hà Nội đã nỗ lực kiềm chế thâm hụt ngân sách. Để tiếp thêm năng
lượng cho khu vực tư nhân, họ đã bán hơn 11.000 doanh nghiệp nhà nước, chỉ còn
lại 600 doanh nghiệp vào cuối những năm 2010. Để hỗ trợ các nhà máy, họ đã đầu
tư mạnh trong hệ thống giao thông để đưa hàng hóa đến thị trường và trường đào
tạo công nhân. Hiện nay, đất nước này được Ngân hàng Thế giới đánh giá cao hơn
về chất lượng cơ sở hạ tầng so với bất kỳ quốc gia nào có mức thu nhập tương tự.
Điểm thi trung học phổ thông quốc tế của họ thường nằm trong top mười toàn cầu,
cao hơn điểm của nhiều quốc gia phát triển, bao gồm cả Hoa Kỳ.
Ngày
nay, Việt Nam trông rất giống như Trung Quốc trong giai đoạn kỳ diệu của mình
cách đây 20 năm.
Lao
động lành nghề đang cho phép Việt Nam sản xuất ra những hàng hóa ngày càng tinh
vi hơn. Những gã khổng lồ như Samsung và Apple đã chuyển hoạt động sản xuất điện
thoại thông minh đến Việt Nam. Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng xuất khẩu
trong nhiều thập niên gần 20% và tăng trưởng GDP trên 5%, ngang bằng với những
thành tựu mà các quốc gia kỳ diệu ở châu Á đạt được. Trong ba thập niên, thu nhập
trung bình hàng năm của Việt Nam đã tăng gấp ba lần, lên gần 3.000 đô la –
thoát khỏi đói nghèo và bước vào tầng lớp có thu nhập trung bình thấp. Tỷ lệ
dân số sống với mức dưới 2 đô la một ngày đã giảm từ 60% xuống còn dưới 5%; gần
90% có bảo hiểm y tế và chưa đến 1% sống không có điện, đưa Việt Nam trở thành
quốc gia đi đầu trong cuộc chiến chống đói nghèo.
Một
hệ thống tư bản chủ nghĩa vận hành sẽ tạo ra khối tài sản lớn, và vào năm 2013,
Việt Nam đã sản sinh ra tỷ phú đầu tiên, Phạm Nhật Vượng. Tốt nghiệp từ một trường
đại học Nga, ông Vượng bắt đầu sự nghiệp của mình bằng cách nhập mì ăn liền cho
Ukraine, một dự án kinh doanh đã phát triển thành tập đoàn Vingroup. Là một tỷ
phú tự lập, ông có nhiều khả năng được ca ngợi hơn là bị coi thường trong một
xã hội kinh doanh, nơi hầu hết mọi người đều thấy được sự tiến bộ thực sự.
Vấn
đề đặt ra là sự bùng nổ của Việt Nam có thể kéo dài được bao lâu. Chế độ độc
tài có xu hướng hoạt động tốt nhất trong giai đoạn đầu phát triển, khi các nhà
lãnh đạo mạnh mẽ có thể thúc đẩy hoàn thành các nhiệm vụ đơn giản như xây dựng
đường bộ. Theo thời gian, không bị ràng buộc bởi các biện pháp kiểm tra và cân
bằng dân chủ, những nhà độc tài thường đẩy các chính sách đến mức cực đoan phi
lý, gây ra các cuộc khủng hoảng lớn khiến đất nước của họ tụt hậu. Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nắm quyền trong nửa thế kỷ, cho đến nay vẫn chưa tạo ra bất kỳ dấu
hiệu cảnh báo tài chính nào về một cuộc khủng hoảng kết thúc bằng phép màu. Tuy
nhiên, việc củng cố quyền lực của Tổng Bí thư mới của Đảng Tô Lâm có thể sẽ thử
thách thành tích này.
Và
dù tương đối ít, các doanh nghiệp nhà nước còn tồn tại của Việt Nam lại rất lớn,
chiếm 1/3 GDP và nhiều khoản nợ xấu nhất của hệ thống ngân hàng. Nếu gặp rắc rối,
nó có thể bắt đầu từ các doanh nghiệp nhà nước đầy mờ ám này. Nhưng hiện tại,
Việt Nam đang xuất khẩu để đạt được sự thịnh vượng và chứng minh rằng ngay cả
những người cộng sản cũng có thể quản lý thành công chủ nghĩa tư bản bằng cách
trao cho người dân nhiều quyền tự do kinh tế hơn và tinh giản vai trò của nhà
nước.
Ba
lời cổ vũ cho chủ nghĩa tư bản
Thụy
Sĩ, Đài Loan và Việt Nam cho thấy rằng trao cho mọi người nhiều tự do hơn về
kinh tế vẫn là hy vọng tốt nhất của nhân loại về tiến bộ kinh tế và xã hội. Sự
mở rộng không cùng của nhà nước không phải là giải pháp khả thi cho các cuộc khủng
hoảng của thế kỷ 21. Có thể kiềm chế nhà nước, nhắm mục tiêu chi tiêu công một
cách chiến lược hơn và để đủ phạm vi cho mọi người đầu tư theo ý họ, không bị
gánh nặng bởi sự rối rắm của thủ tục hành chính và sự can thiệp của chính phủ.
Mặc
dù được thành lập dựa trên lý tưởng về quyền lực trung ương hạn chế, trong nhiều
thập kỷ, Hoa Kỳ đã xây dựng một chính phủ lớn hơn bằng cách tăng nợ công, hằng
năm đưa ra hàng nghìn quy định mới và ứng phó với mọi cuộc khủng hoảng mới bằng
các gói cứu trợ ngày càng lớn hơn. Hình thức của chủ nghĩa tư bản bị méo mó này
đã được chế giễu một cách khéo léo là “chủ nghĩa xã hội dành cho những người rất
giàu”, nhưng những vết nứt trong chính sách kinh tế của Hoa Kỳ còn sâu sắc hơn
khẩu hiệu đó.
Hoa
Kỳ đã tăng chi tiêu cho các chương trình xã hội dành cho người nghèo và tầng lớp
trung lưu, đặc biệt là người cao niên, đồng thời thực hiện các biện pháp giải cứu
cho thị trường tài chính mà chủ yếu có lợi cho những người siêu giàu, những người
có xu hướng lớn tuổi hơn và sở hữu phần lớn các cổ phiếu, trái phiếu và bất động
sản. Đây là rủi ro được xã hội hóa – một hệ thống bảo lãnh của nhà nước chống lại
khó khăn kinh tế – cho tất cả mọi người.
Sự
cân bằng của hệ thống theo chủ nghĩa tư bản “hỗn hợp” của Hoa Kỳ đã chuyển dịch
quá xa hướng về phía kiểm soát của nhà nước, cuối cùng lại có lợi cho giới tinh
hoa đã gây được căn cơ. Hoa Kỳ và các quốc gia khác trên thế giới cần các chính
sách khuyến khích cạnh tranh tư nhân bằng cách hỗ trợ những người trẻ tuổi và
các doanh nghiệp khởi nghiệp thay vì bảo vệ những người đương chức đương quyền
đang già đi – các tập đoàn độc quyền, tỷ phú và ông trùm hiện đang thống trị hệ
thống của Hoa Kỳ. Việc khôi phục niềm tin vào chủ nghĩa tư bản sẽ đòi hỏi phải
học hỏi từ các quốc gia mà hệ thống vẫn hoạt động vì người dân thường, một phần
lớn là nhờ vào chính phủ được hạn chế nhiều hơn.
R.
S.
————————-
Ruchir
Sharma
là Chủ tịch của tổ chức Rockefeller International và tác giả của cuốn What Went
Wrong With Capitalism, và bài viết trên dựa theo cuốn sách này.
Dịch
giả gửi BVN
No comments:
Post a Comment