Tôi
đến trung học Trần Quý Cáp bắt đầu với hành trình ở chùa Viên Giác. Tôi nhớ rất
rõ, ngày cuối mùa hè ở trường Nguyễn Duy Hiệu năm 1968, nơi trường Duy Xuyên
mượn chỗ để dạy cho các học sinh Duy Xuyên vừa tản cư ra sau trận Mậu Thân,
thầy hiệu trưởng Nguyễn Phúc Mai cho chúng tôi biết sang năm trường sẽ dọn
xuống Hội An. Vì một số thầy cô như thầy Nguyễn Phúc Mai, thầy Võ Văn Mạo đều
là người Hội An nên việc di chuyển xuống Hội An với các thây không có gì trở
ngại. Các học sinh không nhà như tôi là chuyện gian nan. Tôi vừa ở Hội An cách
đó vài tháng sau ngày cha tôi mất. Tôi bỏ chùa Viên Giác ra đi. Nhưng có thể
tôi lại phải vào chùa xin tá túc một lần nữa, và lần này chắc sẽ ở rất lâu.
Thật tâm tôi không muốn trở lại chùa, nhưng nếu không rồi tôi sẽ đi đâu. Đời
tôi thường không có nhiều chọn lựa.
Năm
học 1969, trường Duy Xuyên dạy ở đình Cẩm Phô cách chùa Viên Giác không xa. Tôi
học lớp đệ tứ. Buổi liên hoan chia tay nhau ở trung học Duy Xuyên cuối năm đệ
tứ là một ngày đầy cảm động. Trường Duy Xuyên rất tội nghiệp. Không có cơ sở
riêng như hầu hết các trường công lập khác, phải dạy nhờ lang thang từ quận này
sang quận nọ, từ trường Nguyễn Duy Hiệu ở Vĩnh Điện xuống đình Cẩm Phô ở Hội
An. Sang năm sau, chúng tôi chuyển sang trường đệ nhị cấp Trần Quý Cáp.
Chiến
tranh và tuổi thơ trôi nổi đã làm chúng tôi trưởng thành rất sớm. Buổi liên
hoan chia tay được tổ chức long trọng trong phòng rộng phía bên phải đình Cẩm
Phô. Năm đó, tôi 14 tuổi và đứa lớn nhất trong bọn tôi cũng chỉ mới 15 tuổi
nhưng tôi nhớ rất rõ ngôn ngữ trong lời phát biểu của đại diện ban tổ chức rất
ư là người lớn, tương tự, diễn văn của anh trưởng lớp rất xúc động và hùng hồn.
Chúng tôi tự viết lấy, không ai viết giùm. Lá thư gởi thầy cô và bạn bè cùng
lớp do tôi viết với những lời đầy hứa hẹn cho mai sau. Giáo sư hiệu trưởng
Nguyễn Phúc Mai, giáo sư hướng dẫn Võ Văn Mạo cũng nhắn gởi chúng tôi những lời
khuyên nhủ rất chân thành.
Thầy
Võ Văn Mạo kể chúng tôi nghe câu chuyện một ông thủ tướng Pháp, tôi không còn
nhớ tên, sau khi thành danh trở về trường cũ thăm thầy như một cách dặn dò
chúng tôi ra đi nhưng đừng quên nguồn gốc. Chúng tôi trịnh trọng và vui vẻ hứa
với thầy sẽ về Hội An thăm các thầy cô dù không phải là thủ tướng. Thầy trò
cùng cười. Nhưng lời hứa chưa thành sự thật. Bao nhiêu mùa thu qua nhưng những
chiếc lá trong sân đình Cẩm Phô vẫn còn tản mát mỗi người một ngả. Nhiều chiếc
lá đã khô và rụng ở một góc trời nào đó. Suốt đời thầy Võ Văn Mạo gần gũi với
học trò và chúng tôi cũng rất gần gũi với thầy. Thầy có tật ở chân nhưng nhờ
chiếc xe mobylette màu xám quen thuộc đã đưa thầy lên Duy Xuyên và rồi Vĩnh
Điện mỗi tuần. Nghe đâu nhà thầy ở gần rạp Phi Anh nhưng tôi chưa bao giờ đến.
Ngoài
thầy Võ Văn Mạo, một người thầy tôi quý mến khác và cũng thương tôi nhất trong
suốt bốn năm ở trung học Duy Xuyên là thầy Phùng Ngọc Nhựt dạy Việt Văn và
Nhạc. Thầy có vóc dáng rất nghệ sĩ, đeo kính đen, tóc bềnh bồng, có vẻ “lập dị”
nhưng có một lòng yêu quê hương thấm đậm. Bài hát đầu tiên thầy tập cho chúng
tôi hát trong những ngày chưa tản cư ra Vĩnh Điện là bài Những Nẻo Đường Việt
Nam. Thầy hát không hay lắm nhưng truyền cảm và chuyên chở tình yêu quê hương
bát ngát. Tôi cũng thích hát. Dù học rất thường trong những môn khác, tôi luôn
đứng nhất trong môn nhạc.
Ngày
đó tôi đang mang trên vai nỗi buồn quá nặng so với tuổi tác của mình và thầy
cũng mang một tâm sự gì đó vô cùng uẩn khúc nhưng không thể san sẻ với ai nên
những buổi chiều ở Vĩnh Điện, hai thầy trò thường ngồi trên hành lang hát vu vơ
“Những nẻo đường Việt Nam, suốt từ Cà Mau thẳng tới Nam Quan, ôi những nẻo
đường Việt Nam…” Nửa thế kỷ trôi qua nhưng tôi vẫn còn nhớ tiếng hát của thầy
vang lên trong căn phòng nhỏ ở thị trấn Vĩnh Điện xa xôi. Mới đây, tôi nghe tin
thầy đã qua đời. Dù biết dù còn sống chưa hẳn có thể gặp nhau, nhưng ra đi vĩnh
viễn thật là buồn. Tôi không nhớ là thầy theo trường xuống Hội An. Sau những
ngày ở Vĩnh Điện thầy trò chúng tôi chưa gặp nhau lần nào nữa.
Từ
giã ngôi đình cổ, chúng tôi bước vào một ngôi trường khang trang, quy cũ Trần
Quý Cáp. Không giống hai năm trước đây chỉ học cho có vì cả thầy lẫn trò đều
lang thang, năm đệ tam là năm tôi thực sự đi học. Theo một tài liệu được tổng
kết một cách khách quan về lịch sử trường từ ngày thành lập 15 tháng 9 năm 1952
đến năm 1975 Trung học Trần Quý Cáp chỉ có bốn thầy hiệu trýởng gồm thầy Tăng
Dục, thầy Hoàng Trung, thầy Lưu Chí Kiên và thầy Trần Huỳnh Mính. Những năm
tháng đầu trường dạy nhờ tại một ngôi chùa của người Hoa trên đường Cường Để.
Địa điểm hiện nay chỉ được xây xong trong niên khóa 1955-1956. Trong thời gian
tôi vào, năm lớp ở dãy giữa chưa có các tầng lầu như hiện nay. Năm 1973 này Kỳ
Đài Trần Quý Cáp được khởi công xây do hai kiến trúc sư Nguyễn Hy Văn và kiến
trúc sư Đô Thị Gia phác họa. Giống như hầu hết các trường trung học, trường Trần
Quý Cáp rộng với những hàng phượng trồng dọc theo hành lang. Bên cạnh các cây
phượng rất già được trồng sát với dãy lớp giữa là những cây phượng còn non mới
lớn ở ngoài sân. Tính từ lối vào, các lớp nhỏ học bên trái và cứ thế lên cao
dần cho đến các lớp đệ nhất. Cổng trường ngày đó đơn giản, màu gạch rêu phong
với tấm bảng thiếc và hàng chữ Trung Học Công Lập Trần Quý Cáp.
Hiệu
trưởng của chúng tôi ở Trung học Trần Quý Cáp trong ba năm tôi học từ cuối năm
1969 đến tháng 6 năm 1972 là thầy Lưu Chí Kiên và Tổng Giám Thị là thầy Tống
Khuyến. Vì là trường lớn nhất của tỉnh nên trường Trần Quý Cáp có một ban giáo
sư đông đảo và số lượng thầy cô tăng rồi giảm, đến rồi đi, cũng rất nhanh. Tôi
chưa đọc một danh sách giáo sư Trung học Trần Quý Cáp nào đầy đủ. Theo một tài
liệu được viết khá sư phạm và khách quan, năm tôi vào học, trường Trần Quý Cáp
có đến 2.190 học sinh, trong đó có 27 lớp đệ nhất cấp và 17 lớp đệ nhị cấp. Tôi
không nhớ hết thầy cô nhưng tên thầy cô mà tôi học trong ba năm vẫn còn nhớ:
Thầy Nguyễn Văn Liêu dạy Việt Văn, thầy Phan Khôi dạy Anh Văn, cô Trần Phương
Lan dạy Anh Văn, cô Bích Ty dạy Triết, thầy Phạm Phú Lợi dạy Triết, thầy Nguyễn
Ngọc Anh dạy Sử Địa, thầy Đặng Văn Bôn dạy Vạn Vật, thầy Phùng Rân dạy Lý Hóa,
thầy Nguyễn Như Thọ dạy Toán, cô Nguyễn thị Nguyệt dạy Việt Văn, thầy Tống Nhạn
dạy Pháp Văn, thầy Tăng Kim Lân dạy Sử Địa, thầy Tống Diệu dạy Anh Văn.
Năm
đầu ở trường Trần Quý Cáp, thầy Nguyễn Ngọc Anh và thầy Nguyễn Văn Liêu là hai
thầy tôi thích nhất vì tôi thích học văn và sử. Tôi nhớ có lần thầy Liêu ra đề
luận “Các em học sinh nghĩ gì về chiến tranh”. Tôi nhập đề chỉ bằng một câu vỏn
vẹn “Chiến tranh đã làm xã hội Việt Nam đảo lộn”. Trong lúc đa số học sinh
trong lớp nghe tới chiến tranh là tả những cảnh ánh hỏa châu rơi, tiếng súng xa
xa vọng về, tôi nghĩ đến con người và những đổ vở trong xã hội Việt Nam. Thầy
Liêu rất thích cách viết đó và đọc bài luận cho cả lớp nghe.
Chiến
tranh gây ra bao tang tóc, bao tàn phá nhưng từ lúc học lớp đệ tam cho đến bây
giờ tôi vẫn tin cái tàn phá tai hại nhất của chiến tranh không phải là tài sản
mà là con người. Bao nhiêu lớp người đã chết, bao nhiêu thế hệ đã ra đi và sẽ
không bao giờ trở lại trên đất nước Việt Nam. Những mất mát đó không bù đắp
được. Những vết thương trên da thịt có thể sẽ lành đi nhưng vết thương trong
tâm hồn khó mà phai nhạt. Người ta thường nghĩ đến việc tái thiết đô thị, xây
dựng nhà cửa, cầu cống nhưng cái cần tái thiết và xây dựng là tình người. Còn
tình người Việt Nam chúng ta sẽ còn Việt Nam mãi mãi. Mất tình người Việt Nam,
dân tộc này sẽ bị diệt vong. Nhiều khi ngồi nhớ lại những bài luận năm xưa và
những tiểu luận tôi viết bây giờ, cách viết cũng không nhiều thay đổi. Ước gì
thu thập lại được tôi sẽ in thành sách. Thầy Liêu ở Đà Nẵng, chỉ vào trường
Trần Quý Cáp dạy một năm đệ tam niên khóa 1970, sau đó hình như thầy không dạy
nữa.
Thầy
Nguyễn Ngọc Anh có kiến thức lịch sử rất rộng. Thầy cũng chỉ dạy tôi năm lớp đệ
tam 1970. Thầy dạy sử Việt Nam nhưng cũng hay nhắc đến sử Trung Hoa. Thầy
thường mặc áo sơ mi trắng, khuôn mặt trẻ trung và hình như thầy người Huế. Thầy
giảng rất hay vì nghĩ sao giảng vậy một cách tự nhiên, hùng hồn. Rất ít khi tôi
thấy thầy để mắt vào sách giáo khoa. Ngay cả cách hỏi bài cũng vậy, thầy thích
hỏi câu gì thì hỏi, nhiều khi không liên hệ gì với bài học trong tuần. Đang học
chuyện ai thống nhất Việt Nam lần đầu thầy buột miệng hỏi ai thống nhất Trung
Hoa lần đầu. Tôi cũng thích lối dạy đó. Sử học là một khoa học đối chiếu. Nếu
chỉ biết sử nước mình mà không biết sử nước khác rất dễ dẫn đến một thứ chủ
nghĩa dân tộc cực đoan hẹp hòi và ngủ vùi trong vinh quang quá khứ.
Thầy
Nguyễn Như Thọ dạy tôi môn Toán lớp đệ nhất năm 1972. Thầy hơi ốm, đẹp trai và
vui tính. Nhà thầy ở gần đình Cẩm Phô và đến trường bằng chiếc xe Vespa màu
xanh nhạt. Thầy dạy trường công và cả trường tư. Ngoài ra, mùa hè thầy còn dạy
các lớp luyện thi. Thầy dạy toán nhưng không quá khắt khe. Mỗi khi có đứa nào
nói chuyện trong giờ học, thầy gọi tên nhưng khi cậu ấy vừa ngẫng lên, thầy ném
cho cậu ta một viên phấn nhanh như ném phi tiêu. Thầy trò nhìn nhau cười huề.
Thầy viêt trên bảng đen rất đẹp và ngay cả vẽ được một vòng tròn 360 độ chỉ
bằng một nét không dừng tay. Có lúc vẽ thành công nhưng giống như cuộc đời cũng
nhiều khi vòng tròn không được kín. Khi nghe thầy trải qua nhiều gian truân và
đã sang đến Mỹ, tôi thầm mong có một ngày được viếng thăm thầy.
Cô
Nguyễn Thị Nguyệt dạy tôi môn Việt Văn lớp đệ nhất năm 1972. Cô Nguyệt có vóc
dáng mảnh mai, mái tóc thề đen lánh bao giờ cũng chải mượt mà. Trong mắt tôi cô
Nguyệt đẹp nhất trong số các cô mặc dù cô Phương Lan quý phái và cô Bích Ty
hiền hòa. Ngày đó cô Nguyệt vừa tốt nghiệp sư phạm về dạy Việt Văn ở trường
Trần Quý Cáp nên tuổi cô cũng chỉ mới ngoài hai mươi. Cô thường mặc áo dài
xanh. Tôi hay đứng trên hành lang nhìn cô đi trong sân trường. Một cảm giác
thật dịu dàng nhưng không đủ để thành thơ nên tôi không có bài thơ nào viết
tặng cô ngày đó. Cách đây hai năm cô sang Mỹ, anh Nguyễn Hồng Hà, một cựu học
sinh Trần Quý Cáp của thập niên 1960, giới thiệu và tôi may mắn được đến thăm
cô ở Boston. Cô Nguyệt là người duy nhất trong số các thầy cô dạy ở Trung học
Trần Quý Cáp tôi được gặp lại. Mấy chục năm qua, đứa học trò ngẫn ngơ năm xưa
nay đã già nhưng cô Nguyệt trong tâm hồn nó vẫn còn rất trẻ.
Từ
cổng vào, lớp học của tôi là lớp thứ hai, dãy bên phải. Nhìn sang phía bên kia
là Ty Cảnh Sát Quảng Nam chỉ cách một hàng rào. Tôi không biết phòng sát với
lớp học tôi có phải là phòng thẩm vấn hay không nhưng thỉnh thoảng tôi nghe
tiếng la hét, khóc than, van xin, hăm dọa. Tôi hay tò mò nhìn sang và thắc mắc
chuyện gì đang xảy ra bên đó nhưng tất cả bị che khuất bằng một hàng rào kẽm
gai cao. Trong lớp, chỗ tôi ngồi sát cửa sổ. Nhiều khi tôi muốn đóng lại để
khỏi nghe tiếng la hét khóc than.
Bên
kia ô cửa, những con chim sẻ thường bay về cất tiếng líu lo trên những bụi cây.
Sau này, mỗi khi đọc lại những câu thơ của anh Trần Hoài Thư “Tôi sẽ gọi một
bầy chim sẻ nhỏ, những cánh chim từ xa vắng lạc bầy” tôi hình dung cảnh cũ và
chợt nghe lòng xót xa thương thầy cô, nhớ bạn bè. Trong những ngày ở Mỹ, họa
hoằn lắm mới nghe tin một người bạn cũ. Thỉnh thoảng mới biết tin một thầy cô
nhưng phần lớn chỉ để chia buồn như trường hợp cô Phương Lan vừa qua đời năm
ngoái. Nhiều lần tôi tự hỏi, sau bao khói lửa chiến tranh, nghèo nàn tù tội,
biển cả mênh mông, bạn bè tôi, những con chim sẻ với đôi cánh nhỏ nhoi lớn lên
trong một tỉnh lỵ buồn hiu ngày đó bây giờ phiêu bạt về đâu !
Viết
về trường Trần Quý Cáp không thể nào quên nhắc đến Hội An. Dù bây giờ là thành
phố UNESCO hay gì đi nữa tôi luôn gọi Hội An là thành phố của tôi. Thành phố
trầm lặng có những ngôi chùa tên nghe rất lạ, chùa Ngũ Bang, chùa Âm Bổn, chùa
Cầu, nhưng nghe riết nên cảm thấy vô cùng thân thiết. Hội An trong tâm hồn tôi
chẳng khác gì một căn nhà riêng, nơi đó, từng góc phố, từng con đường, từng mái
ngói, từng giọng nói êm đềm của cô bé bưng cà phê, từng giọng rao cao vút của
chị bán cao lầu rong đã gắn liền trong một phần đời. Ngày đó Hội An cũng đã có
nhiều quán cà phê nhưng chúng tôi thích uống cà phê ở quán phía trước Tiểu khu
Quảng Nam và gần nhà nhất là Cà phê Số Một sát bên con hẽm nhỏ đi vào khu Khổng
Miếu.
Hội
An những ngày tôi sống buồn và vắng vẻ. Thành phố buồn đến nỗi trong một phóng
sự đăng trong trang địa phương của báo Sóng Thần, tôi đã gọi Hội An là ”Thành
phố chết”. Không những con người chẳng ai ngó ngàng đến Hội An mà cả chiến
tranh cũng bỏ sót Hội An. Thật vậy, ngoại trừ trận Mậu Thân và những lần pháo
kích, trong suốt mấy mươi năm của cuộc chiến, thành phố của tôi như rơi vào
quên lãng. Điều rất lạ, ngay cả Mỹ, trong thời cao điểm với cả trăm ngàn quân
đóng ở Đà nẵng, cách đó vài chục cây số, không có đơn vị nào lớn đóng ở Hội An.
Các đơn vị Đại Hàn thuộc sư đoàn Thanh Long hay Mãnh Hổ gì đó đóng ở Cẩm Hà,
Lai Nghi chứ không đóng ở Hội An. Hẳn nhiên lý do chính vì Hội An không còn giữ
một ví trí kinh tế chiến lược như 300 năm trước. Dù sao, nhờ những lãng quên đó
mà ngày nay những mái ngói cong còn nguyên vẹn, những cột nhà chạm trổ tinh vi
đã giúp thu hút du khách để nuôi sống người dân phố Hội sông Hoài.
Những
năm chiến tranh, Hội An rất nghèo. Một lần, có người hỏi tôi bây giờ Hội An
sống nhờ du khách, ngày xưa sống bằng gì. Tôi trả lời nửa đùa nửa thật, ngày
xưa Hội An sống bằng thơ. Ngoài thơ, tôi không nhớ Hội An sống bằng gì khác.
Không ruộng đất, không nhà máy. Không du khách. Mặc dù đất Hội An sản xuất ra
hàng trăm nhà thơ nhưng nhà thơ nỗi tiếng nhất Hội An không ai tranh cãi, là
Bùi Giáng. Nhà thơ quê Duy Xuyên nhưng học trường Minh Viên ở Hội An và cưới
vợ, bà Phạm Thị Ninh, cũng người Hội An. Ông đã rời Hội An 30 năm trước, nhưng
để lại những câu lục bát nuôi sống tâm hồn người xứ Quảng qua nhiều thế hệ. Tên
Bùi Giáng ở xứ Quảng quen thuộc đến nỗi nhiều khi người ta cứ tưởng ông chưa
bao giờ rời khỏi xứ. Một bài thơ của Bùi Giáng về Hội An:
Mơ
màng phố cũ hoang liêu
Cánh buồm con sóng sương chiều Hội An
Tờ mây chan chứa mộng vàng
Tuổi đời em kết mấy ngàn cánh hoa
Mừng vui giọt tuổi chan hòa
Bước đi từ đó gió xa bay về
Ngậm ngùi đàn lệ ai nghe
Cội nguồn bên tháng năm thề xẻ chia
Dấu mờ hoen hận còn kia
Hồn trăng soi bóng sầu khuya một bờ.
Cánh buồm con sóng sương chiều Hội An
Tờ mây chan chứa mộng vàng
Tuổi đời em kết mấy ngàn cánh hoa
Mừng vui giọt tuổi chan hòa
Bước đi từ đó gió xa bay về
Ngậm ngùi đàn lệ ai nghe
Cội nguồn bên tháng năm thề xẻ chia
Dấu mờ hoen hận còn kia
Hồn trăng soi bóng sầu khuya một bờ.
Hầu
hết các nhà thơ Hội An có ít nhất một bài viết về thành phố cổ này và thường là
những bài thơ được yêu thích nhất của tác giả như trường hợp Bữa Say Ghé Chùa
Ông của Hoàng Lộc, Nụ Hoa Cho Người Em Hội An của Luân Hoán, Trưa Ở Hội An của
Hoàng Quy, Ngọn Quế Viễn Phương của Thái Tú Hạp, Hồi Âm của Thành Tôn v.v..
Những
người từ Hội An ra đi đều có một nhận xét giống nhau: “Hội An là thành phố để
về thăm chứ không phải nơi để ở”. Tuy buồn bã như thế, hàng năm, tôi vẫn về.
Ngay cả những năm khó khăn sau 1975, tôi vẫn cố gắng về. Đi xa, nhớ Hội An da
diếc nhưng khi vừa bước chân về lòng lại muốn ra đi. Trong những năm ở Sài Gòn,
tôi về Hội An chỉ để đi một vòng phố cổ, đứng trước trường Trần Quý Cáp đảo mắt
nhìn các em học sinh để tìm lại chính mình thời học trò, rồi lại ra đi trên
những chiếc xe Renault màu xanh đậm và già nua không thua gì thành phố.
Chào
cô gái học trò đang tới lớp
Cho tôi làm viên sỏi dưới chân em
Ðể xào xạc hồn tôi khi mới lớn
Chút men tình năm tháng ấy chưa quên.
(Giấc mơ nhỏ của tôi, thơ Trần Trung Đạo)
Cho tôi làm viên sỏi dưới chân em
Ðể xào xạc hồn tôi khi mới lớn
Chút men tình năm tháng ấy chưa quên.
(Giấc mơ nhỏ của tôi, thơ Trần Trung Đạo)
Hội
An của tôi là những buổi chiều ngồi trước cửa nhà thơ Phạm Đình Nguyên ở Ngã Ba
Tin Lành ngâm nga “ Dòng sông nào đưa người tình đi biền biệt” và nhìn các em
nữ trung học Hội An đi học về trong cơn mưa.
Em
về phố Hội chiều mưa lớn
Vóc ngọc ngà khoe dưới lụa hồng
Ta như giọt nước mùa mưa đó
Đã cuốn trôi về trăm nhánh sông.
(Em về phố Hội, Trần Trung Đạo)
Vóc ngọc ngà khoe dưới lụa hồng
Ta như giọt nước mùa mưa đó
Đã cuốn trôi về trăm nhánh sông.
(Em về phố Hội, Trần Trung Đạo)
Tôi
viết những dòng thơ đầu tiên khi còn ở trường Duy Xuyên và sáng tác nhiều hơn
khi chuyển qua trường Trần Quý Cáp. Nhưng thơ và cả văn cũng chỉ chia sẻ trong
nhóm bạn bè gần gũi. Ngoại trừ vài vần thơ tình hiếm hoi như trên, phần lớn tôi
viết từ nhiều góc cạnh của số phận con người và đất nước. Đơn giản vì tôi
thương đất nước mình. Đời tôi gian truân không khác gì đất nước. Từ thời thơ ấu
ở quận Duy Xuyên tơ lụa đến bóng đa chùa Viên Giác Hội An, thơ văn tôi còn lại
những dấu chân, những tiếng thì thầm của những người tôi quen và không quen,
những hoàn cảnh tôi đã gặp, đã từng là nhân chứng.
Bạn
bè văn nghệ chúng tôi hay gặp nhau trên căn gác của Nguyễn Xuân Tường, gần chùa
Viên Giác. Tôi chỉ quen Tường sau khi chuyển sang trường Trần Quý Cáp nhưng
thân nhau rất nhanh. Tường học giỏi, đàn hay, sáng tác nhạc, làm thơ, học cả lớp
báo chí hàm thụ của tạp chí Phổ Thông. Thơ của Tường đăng nhiều nhất trên tạp
chí Thứ Tư, ký bút hiệu Mặc Vũ. Tôi biết nhiều về báo chí cũng nhờ học ké các
sách vở trong lớp hàm thụ của Tường và tập đàn từ cây đàn của Tường. Tường có
đức tính rất tốt, tận tụy hy sinh cho bạn bè. Trong những ngày cùng khổ ở Sài
Gòn, khi không còn nơi nào khác để trọ, tôi tìm đến Tường. Cậu ấy giới thiệu
tôi dạy kèm ở nhà người bà cô ruột của cậu ta. Người đàn bà có tâm hồn bao dung
như dòng sông Hằng đó sau thời gian ngắn đã trở thành mẹ nuôi của tôi.
Từ
đó tôi không còn khó khăn về vật chất và cả tinh thần nữa. Mẹ người Kim Bồng
nhưng trong các tác phẩm của mình, tôi thường gọi mẹ là Mẹ Hòa Hưng để phân
biệt với Mẹ Duy Xuyên đã mất. Tôi hay chọc mẹ tôi cười nhất là trong những lần
đánh bạc ăn gian với đám em trong ba ngày Tết. Mười năm sau khi rời Sài Gòn,
tôi viết tặng mẹ bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười. Mẹ rất thích bài thơ
này. Anh Võ Tá Hân phổ bài thơ thành nhạc, nhiều ca sĩ hát nhưng ước mơ của mẹ
là một ngày tôi sẽ về để hát mẹ nghe. Dĩ nhiên là tôi lại hứa như bao lần lần
lỡ hẹn đã qua.
Ngoài
giờ học ở trường Trần Quý Cáp và gặp gỡ một số bạn bè giới hạn, tôi chỉ ở chùa
đọc sách. Sau ngày xây xong Trung Tâm Sinh Hoạt Thanh Niên, sư phụ tôi có ý
định thành lập một thư viện nên thu thập rất nhiều sách. Ý định không thành,
thầy đóng sách thành từng thùng và để dành trên lầu. Bên cạnh kinh điển là các
tác phẩm văn học, kinh tế và rất nhiều sách chính trị. Tôi còn nhỏ nên công
việc tôi làm mỗi ngày rất nhẹ nhàng không phải gánh nước tưới rau như các chú
lớn tuổi. Những ngày không đi học, sau khi lau chùi bàn ghế trong giảng đường
và quét lá đa một nửa sân chùa xong tôi thường dùng thời gian còn lại để đọc
sách.
Trường
Trần Quý Cáp không có trung tâm thi tú tài. Mùa hè 1972, học sinh các lớp đệ
nhất trường Trần Quý Cáp chúng tôi lều chõng đi thi tú tài phần hai ở trung tâm
Đà Nẵng. Chủ tịch hội đồng giám khảo là thầy Hoàng Trung, nguyên hiệu trưởng
trường Trần Quý Cáp. Ngày công bố kết quả ở trường Nữ Trung Học Đà Nẵng, bác
tôi từ bên Sơn Chà đạp xe qua để cùng tôi đi xem bảng. Tôi chỉ muốn đi một mình
vì không muốn bác đau lòng nếu chẳng may tôi rớt. Bác nhất định cùng đi. Ngày
dán kết quả, hẳn nhiên, là ngày vô cùng hồi hộp.
Sân
trường Nữ Trung Học ngày đi coi bảng rộn tiếng cười nhưng cũng đầy nước mắt.
Khi đến họ Trần, danh sách thi đậu chỉ có vài tên vần chữ T và chấm dứt. Không
có tên tôi. Những tờ kết quả dán bên dưới thuộc về các ban khác. Bác tôi mắt
yếu không đọc được nhưng thấy tôi không nói gì, bác biết sự im lặng là một dấu
hiệu không vui. Khi quá lo lắng, tôi quên nghĩ đến một điều vô lý, chẳng lẽ các
họ bắt đầu với các vần U,V,X,Y …đều rớt hết hay sao, nhất là rất nhiều người họ
Võ và Vũ. Thì ra, người dán kết quả thấy phía dưới ban khác chiếm, đã dán phần
còn lại ở một bức tường khác khá xa. Tôi tìm ra và thấy tên mình trong đó. Bác
tôi mắt yếu nhưng vẫn cố chen lấn vào để chính mắt đọc tên tôi.
Tôi
ôm chầm các bạn vần T, V, nhảy nhót vui mừng, nhưng khi chợt nhìn lên, tôi thấy
bác khóc. Với tâm hồn mộc mạc, bác không vuốt tóc hay nói một lời khen nhưng từ
dòng nước mắt đang chảy trên đôi má nhăn nheo của cụ già Quảng Nam chất phác,
tôi biết bác mừng lắm. Bác tôi ít nói. Khi buồn ông đi uống rượu. Tánh tình ông
hiền hậu và rất dễ mềm lòng. Một lần tôi học lớp đệ ngũ ở Vĩnh Điện bác đạp xe
từ Sơn Chà vào thăm. Dù trong giờ học nhưng bác nhất định không chờ. Nhân viên
văn phòng đành đưa bác đến phòng học để gặp tôi. Bác đứng giữa lớp khóc ngon
lành khi thấy tôi đang ngồi trong một góc phòng. Thầy cô và bạn học biết hoàn
cảnh tôi nên không ai nói gì. Tôi rời lớp theo bác ra ngồi trên bậc tam cấp.
Tôi dặn bác đừng khóc và cũng đừng vào thăm nữa, tôi sẽ bình an. Nói thế cho
bác yên tâm mặc dù tôi không biết đời mình rồi sẽ ra sao. Thằng bé ốm yếu mười
ba tuổi ngồi bên ông già Quảng Nam giữa một quê hương đang đong đưa trong cơn
bão. Khi bác đạp xe ra về, nhìn theo chiếc lưng còm cõi của bác, lòng tôi se
lại, tôi nhớ cha tôi vô cùng. Nhiều khi tôi thấy mình như những cọng lau bên bờ
sông Thu, khi cong tưởng chừng sát đất nhưng rồi lại đứng lên và đi giữa cuộc
đời.
Coi
bảng Tú Tài xong, bác tôi hớn hở tự đạp xe ra phà để về lại Sơn Chà. Sau này
nghe bác kể tôi mới hiểu ra, bác khóc không phải chỉ vì mừng cho tôi đậu tú tài
thôi nhưng còn nghĩ đến ba tôi, em trai kế của bác, đã qua đời vài năm trước
đó. Ước mơ của ba tôi, người thợ dệt vải ở Duy Xuyên mong con mình đậu tú tài
đã thành sự thật. Ông nội tôi có tám người con gồm cả trai lẫn gái nhưng không
gia đình nào thành công trên đường học vấn. Các anh họ lớn tuổi của tôi, ra đi
dù theo bên này hay bên kia đều không ai trở lại. Anh chết bên này sông Thu, em
chết bên kia sông Thu. Tôi giận bác tôi nhiều chuyện trong gia đình nhưng từ
hôm đó về sau tôi thương bác vô cùng. Đi bộ trên đường Hùng Vương ra bến xe Chợ
Cồn để về Ngã Ba Huế, tôi muốn la lớn lên cho mọi người cùng biết tôi đang có
một niềm vui nhưng không còn một người thân nào trong gia đình để san sẻ.
Tôi
quyết định đi Sài Gòn dù trước đó có thầy khuyên tôi nên ra Huế học. Tôi phải
đi xa. Không gian nhỏ hẹp ở quê hương hay ở Huế dường như không đủ chỗ cho niềm
u uất của tôi trang trải. Tôi về lại Duy Xuyên thăm mộ mẹ lần cuối trước ngày
đi. Ngày xưa mỗi chiều đi học ở trường Tiểu học Xuyên Châu về tôi thường dừng
lại ở đây. Cỏ hoang không mọc kịp để tôi nhổ. Hôm đó tôi về, ngôi mộ mẹ tôi đầy
cỏ dại. Từ độ tôi ra Vĩnh Điện, Đà Nẵng rồi xuống Hội An trọ ở chùa Viên Giác,
chẳng còn ai chăm sóc phần mộ mẹ. Phần lớn bà con đều đã tản cư ra Đà Nẵng.
Trong xóm chỉ còn lại vài gia đình sống ngay giữa hai lằn đạn, bám lấy ruộng
vườn vì không biết đi đâu và cũng không biết lấy gì để sống nếu chạy ra ngoài
Đà Nẵng. Tôi ngồi thật lâu bên mộ mẹ. Phía bên kia là Cầu Chìm. Mùa hè, dòng
nước Thu Bồn như nước mắt tôi sắp cạn. Ngôi nhà nhỏ của cha con tôi bị cháy rụi
chỉ còn trơ trụi một nền đất. Tôi hứa với mẹ tôi mùa hè sang năm con sẽ trở về.
Tôi tạm biệt ngôi làng nhỏ ra đi, hành trang của tôi không còn gì ngoài tình
thương và khát vọng tự do.
Tôi
là một trong những học sinh lớp đệ nhất cuối cùng rời Phố Hội thân yêu. Lý do,
sau khi thi xong Tú Tài phần hai tôi bị bịnh nằm ở Đà Nẵng suốt mấy tuần. Tôi ở
nhà một người cô để được cô chăm sóc. Một cô bé cùng quê có đôi mắt đen tròn
mỗi chiều đến thăm tôi. Cô tôi nghi ngờ chúng tôi có tình ý gì. Tôi không có và
cô bé cũng không. Chúng tôi lớn lên với nhau từ những ngày còn bé ở trong quê.
Giống như bây giờ, hồi đó tôi đã thích lý sự những chuyện “trên trời dưới đất”
nhưng cô bé dù không hiểu gì cũng kiên nhẫn ngồi nghe. Âm nhạc cũng thế. Những
bài hát tôi hay hát thời đó như Thiên Thai, Thu Hát Cho Người đài phát thanh Đà
Nẵng thường không phát nhưng cô bé nghe tôi hát riết cũng quen tai. Một tình
cảm nhẹ nhàng bàng bạc như khói sương trong cả nhiều năm sau đó. Những năm học
đại học ở Sài Gòn, mùa hè nào tôi cũng về Đà Nẵng. Cô bé rất vui mỗi khi thấy
tôi về và tôi cũng nghe như có tiếng chim hót trong lòng mỗi lượt về thăm, cho
đến một ngày hè 1981, cánh chim nhỏ bay qua bên kia biển rộng, chưa về.
Khi
khỏe ra, tôi vào Hội An dọn dẹp sách vở, đảnh lễ thầy trụ trì và chào các chú
trong chùa để ra đi. Thầy trụ trì cho tôi một ít tiền để đi đường nhưng không
nói gì thêm nhiều. Cuối tháng Tám và mùa thu sắp sửa trở về. Trong tiếng lá đa
xào xạc tôi tự mở cánh cửa để ra đi âm thầm như khi tôi đến. Không một nụ cười
hứa hẹn quay về và cũng không một giọt nước mắt khóc chia tay. Như Nguyễn Bính
tả trong Những bóng người trên sân ga, tôi “một mình làm cả cuộc phân ly”.
Không ai bà con ruột thịt với tôi. Tôi không phải là một chú tiểu, một tăng sĩ,
một đệ tử xuất gia của sư phụ mà chỉ là đứa trẻ mồ côi trọ học. Số phận của tôi
không khác gì số phận của hàng triệu đứa trẻ bất hạnh trên đất nước Việt Nam
thời đó. Nhưng tôi tin, tôi đã học được rất nhiều và thay đổi rất nhiều sau
thời gian ở chùa Viên Giác. Tôi hiểu bao dung tha thứ là điều cần thiết nhưng
quan trọng hơn phải biết bao dung tha thứ cho chính mình trước.
Những
năm ở chùa Viên Giác đã làm dịu cơn phẫn nộ trong lòng một đứa bé bị chiến
tranh tàn phá, hủy diệt gần như tất cả những gì yêu quý nhất. Lời dạy “Hãy thắp
đuốc lên mà đi” của Đức Phật đã ảnh hưởng đến nhân sinh quan và thế giới quan
của tôi. Con người ai cũng có thể dăm đôi lần bị té ngã nhưng phải biết buông
xả, đứng dậy và tiếp tục đi. Tôi đã đứng dậy, đã đi, đã sống sót qua nhiều thử
thách. Tháng Hai vừa qua, đứng trước tảng đá nơi Đức Phật có thể đã ngồi giảng
bài pháp đầu tiên bên Vườn Lộc Uyển, tôi xúc động và cảm thấy mình như chiếc lá
từ hơn hai ngàn năm trăm năm trước vừa rơi về cội. Chiếc lá đa chùa Viên Giác
Hội An, chiếc lá bồ đề ở Vườn Lộc Uyển Sarnath hay giọt nước sông Hằng Varanasi
chỉ là một, một tâm hồn, còn và mất, ra đi và lại trở về. Khi chuyến xe rời Lộc
Uyển ra phi trường Varanasi, tôi ngoái đầu nhìn lại và thầm thưa nhỏ trong lòng
“Con cám ơn đức Bổn Sư”.
Cuối
tháng Tám 1972, các bạn đi du học đã đi rồi, các bạn đi Sài Gòn học đã đi rồi
và cả các bạn đi học ở Huế cũng đã đi rồi. Thành phố vốn đã vắng lại càng vắng
hơn. Tôi đi ngang qua trường Trần Quý Cáp. Mùa hè sắp hết. Hoa phượng đỏ đang
tàn. Thầy cô chưa trở lại. Từ nay Trung học Trần Quý Cáp không còn là trường
học mà là kho tàng của tuổi trẻ chúng tôi. Bàn ghế, hộc tủ, bảng đen, những câu
thơ viết vội trên tường mãi mãi sẽ là chứng tích. Tôi ra đi mang theo hình ảnh
thầy cô và rất nhiều điều đáng nhớ nhưng không thể nào viết hết ra đây. Những lời
dạy dổ của các thầy, các cô là nhựa nguyên, nhựa luyện cho cây đời tôi xanh lá.
Những năm sau đó, vào Sài Gòn và rồi ra nước ngoài, dù học thêm ở nhiều trường
lớn hơn, dù ngồi trong những giảng đường khang trang hiện đại hơn, dù học với
những giáo sư tên tuổi hơn, một điều tôi luôn ghi khắc trong lòng, ánh sáng rực
rỡ của ngọn đèn đại học Mỹ đã được thắp lên từ những cây diêm rất nhỏ ở Trung
học Duy Xuyên, Trung học Trần Quý Cáp ngày xưa.
Nếu
định nghĩa giáo dục là những gì còn lại sau khi quên hết, những gì còn lại
trong tôi không phải là những nguyên tắc máy móc, những công thức khô khan mà
là những bài giảng công dân giáo dục nhẹ nhàng nhưng cần thiết của thầy cô,
những khát vọng và ước mơ tuổi trẻ mà tôi nung nấu dưới mái ngói đơn sơ của
ngôi trường mẹ, Trung học Trần Quý Cáp Hội An.
Trần Trung Đạo
(Viết cho đặc san Trường Tôi kỷ niệm 60 năm thành lập TH Trần Quý Cáp, Hội An 1952-2012)
(Viết cho đặc san Trường Tôi kỷ niệm 60 năm thành lập TH Trần Quý Cáp, Hội An 1952-2012)
No comments:
Post a Comment