Vũ Hoàng
& Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2012-07-05
Việc
Trung Quốc quyết định mở ra chín lô thăm dò dầu khí trên thềm lục địa của Việt
Nam là động thái đáng ngại.
Nhưng
chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa cho rằng mục tiêu không chỉ là kinh tế và
đấy là một vấn đề mà thế giới cần quan tâm. Diễn đàn Kinh tế có cuộc trao đổi
với nhà tư vấn kinh tế của đài Á châu Tự do về vấn đề này, sẽ do Vũ Hoàng thực
hiện sau đây.
Kinh tế và chính trị ở biển Đông Á
Vũ
Hoàng: Thưa
ông, kỳ này ta sẽ cùng trao đổi về một vấn đề đáng quan tâm trong khu vực Đông
Nam Á. Đó là việc tập đoàn dầu khí CNOOC của Trung Quốc tiến sâu vào thềm lục
địa và phạm vi 200 hải lý của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trong vụ
này, các nước đều thấy ra mục tiêu kinh tế của Trung Quốc khi họ có yêu cầu rất
lớn về năng lượng. Nhưng liệu vấn đề có chỉ là kinh tế hay không?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: -
Trung Quốc chuẩn bị việc này đã từ khá lâu và quyết định của Tổng công ty Dầu
khí Hải dương như ông vừa nhắc đến chỉ là kết cục tất yếu nhưng sẽ mở ra nhiều
vấn đề không chỉ cho Việt Nam mà cho các quốc gia khác trong khu vực. Chúng ta
nên tìm hiểu về các khía cạnh kinh tế, kinh doanh và sâu xa hơn vậy là cả khía
cạnh an ninh chiến lược.
Vũ
Hoàng: Như
vậy, xin đề nghị với ông là từng bước tìm hiểu những mục tiêu và động thái của
Trung Quốc trong khu vực này theo lối trình bày bối cảnh của cả một hồ sơ rộng
lớn ở đây.
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:
- Thưa vâng, ta sẽ mở ra một tấm bản đồ để tìm hiểu toàn bộ sự việc rồi tập
trung dần vào bài toán hiện nay của Việt Nam và các nước trong khu vực.
-
Thứ nhất, là khu vực rộng lớn ở miền Tây của Thái bình dương mà ta có thể gọi
chung là biển Đông Á. Tại miền Bắc, ta có khu vực Đông Bắc Á là vùng biển tiếp
cận giữa Trung Quốc, Triều Tiên, Nga, Nhật Bản xuống tới Đài Loan. Miền Nam có
khu vực Đông Nam Á, là vùng biển Đông hải của Việt Nam mà thế giới quen gọi là
Trung Nam hải, biển miền Nam của Trung Quốc hay biển Hoa Nam. Vùng biển Đông
Nam Á này mới là khu vực chiến lược nhất cho cả thế giới, vì thịnh vượng hay
chiến tranh có thể là từ đây mà ra. Lý do thuộc về địa dư.
-
Đây là khu vực sinh sống của gần 600 triệu dân Đông Nam Á bên cạnh hơn hai tỷ
người tại Trung Hoa và bán đảo Ấn Độ, tức là 40% dân số toàn cầu, mà của các
nền kinh tế năng động nhất. Vùng biển này có các dòng hải lưu hoặc đường chuyển
vận ngoài biển và ba eo biển nối liền Ấn Độ dương ở miền Tây với Thái bình
dương ở miền Đông, nối liền Đông Bắc với Đông Nam Á và Úc Châu ở miền Nam. Vì
vậy, không chỉ có 10 quốc gia Đông Nam Á mà hầu hết các nước khác đều phải đi
qua khu vực này trong mục tiêu giao dịch buôn bán. Hoa Kỳ chẳng hạn thì hàng
năm có khoảng 1.200 tỷ đô la xuất nhập khẩu được vận chuyển trên vùng biển này.
Vũ
Hoàng: Đó
là về hình thể và tính chất trung tâm chuyển vận của địa cầu. Bên trong hay bên
dưới đại dương này còn có tiềm năng dầu thô hay khí đốt rất quan yếu cho công
nghiệp của các nền kinh tế mà ông vừa nói là năng động nhất.
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: -
Thưa đúng như vậy và cũng vì thế mà mình sẽ tiến dần và tập trung vào bài toán
kinh tế hay năng lượng của Trung Quốc để hiểu ra chuyện tranh chấp ngày nay.
-
Vùng biển Đông Nam Á có tiềm lực cao về năng lượng. Người ta tính ra trữ lượng
đã xác định về dầu thô là bảy tỷ thùng và về khí đốt là 900 ngàn tỷ thước khối.
Là một nước đói ăn và khát dầu, Trung Quốc rốt ráo tìm hiểu tiềm năng về dầu và
khí tại đây.
Họ
ước lượng là dưới lòng biển Đông, họ có thể tìm ra 130 ngàn tỷ thùng dầu, coi
đây là giếng dầu khổng lồ chỉ thua Ả Rập Xaođi thôi. Nhìn cách khác, mà cũng
từ Trung Quốc ra, một phần ba trữ lượng về dầu khí của xứ này thật ra lại nằm
tại biển Đông Nam Á. Nhưng 70% của số năng lượng đó lại nằm rất sâu dưới đáy
biển trên một khu vực có diện tích là 1.600 ngàn cây số vuông.
-
Khi vạch ra cái lưỡi bò chín đoạn và đòi chủ quyền trên một vùng biển rộng lớn
của thiên hạ, có diện tích là ba triệu rưởi cây số vuông nghĩa là một phần ba
của lãnh thổ Trung Quốc, tất nhiên là họ nhắm vào nguồn dầu khí ở dưới. Chín lô
dầu mà họ vừa đòi khai thác trên thềm lục địa của Việt Nam bao trùm lên một
diện tích là 160 ngàn cây số vuông, nhưng ta không quên rằng nguồn năng lượng
đó không nổi trên bề mặt mà chìm sâu dưới đáy biển.
Nhìn
cách khác, mà cũng từ Trung Quốc ra, một phần ba trữ lượng về dầu khí của xứ
này thật ra lại nằm tại biển Đông Nam Á. Nhưng 70% của số năng lượng đó lại nằm
rất sâu dưới đáy biển trên một khu vực có diện tích là 1.600 ngàn cây số vuông
Vũ
Hoàng: Tức
là muốn tìm ra và bơm lên để sử dụng thì phải cần kỹ thuật, có phải vậy chăng?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:
- Đúng vậy, kỹ thuật là một bài toán. Vì thế ta mới chú ý đến tập đoàn khai
thác dầu khí ngoài khơi là "Tổng công ty Dầu khí Hải dương", một
trong ba doanh nghiệp năng lượng lớn nhất của nhà nước Trung Quốc. Cả chục năm
qua, tập đoàn "Xi Nốc" này ráo riết liên doanh với các tổ hợp dầu khí
tiên tiến của Tây phương để học hỏi kỹ thuật và kinh nghiệm.
-
Qua liên doanh, họ đóng góp nhân công, thiết bị và hoa hồng, để tiếp nhận công
nghệ thăm dò và đào dầu dưới biển hầu có thể tự khai thác lấy. Kết quả là đầu
Tháng Năm vừa qua, họ hoàn tất dàn khoan 981 cách Hong Kong 350 cây số ở hướng
Đông Nam. Đây là bước đột phá vì dàn này có thể đào ở độ sâu 3.000 thước dưới
đáy biển. Khi tranh chấp thuần về kinh doanh với các nước trong khu vực, họ đã
có thêm một lợi thế là trình độ kỹ thuật mà các tập đoàn dầu khí Việt Nam hay
Philippines hoặc Malaysia, Indonesia vẫn chưa có.
-
Lợi thế thứ hai là khả năng bảo vệ bằng phương tiện quân sự, vì thế mà ngay sau
khi mời quốc tế vào thăm dò và khai thác chín lô ngoài biển, họ đưa ngay tầu
"hải giám" vào để thị uy và chứng tỏ khả năng bảo vệ đó. Nhưng, mục
tiêu chính thật ra vẫn không là tìm dầu qua thủ thuật chiêu dụ kinh doanh. Mục
tiêu chính là dùng mối lợi kinh doanh để cho các nước xác nhận chủ quyền của
Trung Quốc trên vùng biển Đông Nam Á.
Không có lý nhưng có lực
Chín lô dầu khí mà Trung Quốc quyết định mở ra thăm
dò nằm trong thềm lục địa của Việt Nam. Petrovn
Vũ
Hoàng: Chúng
tôi xin tóm lược lại diễn tiến của kế hoạch này hầu thính giả của chúng ta hiểu
ra lối tính toán tinh vi của Trung Quốc. Trước nhất, họ dùng mối lợi kinh doanh
để mời các nước có trình độ kỹ thuật cao cùng vào khai thác với mục đích là học
nghề và thiết kế lấy loại dàn khoan có khả năng đào dầu dưới đáy biển. Sau khi
đã tự túc và lập lấy dàn khoan, có họ thế mạnh để loại bỏ các nước đang tranh
chấp về chủ quyền ngoài khơi rồi lại dùng mồi kinh doanh để nhử các tổ hợp dầu
khí tiến sâu hơn vào thềm lục địa hay khu đặc quyền kinh tế của các xứ kia, với
sức bảo vệ của hải quân Trung Quốc. Mục tiêu sau cùng và rốt ráo là khiến cho
xứ nào muốn liên doanh với họ thì mặc nhiên công nhận chủ quyền thực tế của
Trung Quốc trên vùng biển đang có tranh chấp. Thưa ông, có phải là như vậy
chăng?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: -
Tôi nghĩ vậy và đề nghị là ta hãy lạnh lùng nhìn vào thực tế của thiên hạ trong
cách tính toán về quyền lợi.
-
Việc Bắc Kinh đòi mở ra chín lô khai thác nằm sát bờ biển Việt Nam chỉ có một
hai trăm cây số là điều vô giá trị về pháp lý và vi phạm Công ước Luật biển của
Liên hiệp quốc. Mà họ cứ làm vì tin vào lòng tham của thiên hạ. Việc họ thiết
lập một đơn vị hành chính là thành phố Tam Sa đã manh nha từ năm năm trước cũng
nằm trong cái hướng bất chấp công pháp quốc tế và gần đây là cách trả lời khá
ngang ngược của Bắc Kinh khi Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Luật biển.
-
Thứ hai, dù chẳng có lý họ vẫn có lực, là phương tiện quân sự bảo vệ việc phi
pháp của mình. Thứ ba, khi đã thuyết phục được các nước là hãy cùng vào khai
thác những giếng dầu này – mà thật ra họ có thể tự túc khai thác lấy – lãnh đạo
Trung Quốc có thêm thế mạnh về pháp lý vì coi như các nước đã xác nhận chủ quyền
của họ trên một vùng biển đang có tranh chấp với năm sáu nước khác trong khu
vực. Sau cùng, và tôi nghĩ là đây mới là mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh, đó
là minh nhiên xác nhận rằng biển Đông Nam Á, hay Đông hải của Việt Nam, là vùng
trái độn quân sự, một khu vực mà Trung Quốc có quyền và có khả năng kiểm soát.
Đây là lúc ta trở lại khái niệm về "quyền lợi cốt lõi" hay "hạch
tâm nghĩa lợi" của họ. Với Bắc Kinh, khu vực này cũng chiến lược tương tự
như Tân Cương và Tây Tạng.
Vũ
Hoàng:
Chúng tôi bắt đầu hiểu rõ hơn diễn tiến lý luận của ông, rằng dầu khí không là
mục tiêu duy nhất. Chủ quyền và khả năng khống chế về quân sự mới là chính.
Nhưng các nước khác tính sao về động thái đó của Trung Quốc?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:
- Ta có thể phân biệt ba trường hợp khác nhau trong cách tính toán này.
-
Thứ nhất là các nước Đông Nam Á không có tranh chấp về chủ quyền với Trung
Quốc, như Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cambốt hay Indonesia, có thể cân nhắc quyền
lợi để đứng ngoài vòng tranh chấp hầu vẫn hợp tác về kinh tế với Trung Quốc,
nhưng mặc nhiên làm suy yếu tiếng nói thống nhất của cả Hiệp hội ASEAN của 10
Quốc gia Đông Nam Á. Thí dụ như lập trường hòa hoãn gần đây của Thái Lan, với
hậu quả cũng bất lợi cho năm nước hạ nguồn Mekong.
-
Thứ hai là các nước Đông Nam Á đang tranh chấp về chủ quyền với Trung Quốc, nổi
bật là Việt Nam và Philippines. Các nước này yếu thế và bị áp lực từ nhiều mặt,
thí dụ như Philippines khó xuất khẩu chuối vào Trung Quốc là chuyện quá nhỏ mà
có ý nghĩa lớn nhưng ít ai chú ý. Trong vụ đụng độ tại Bãi cạn Scarborough gần
đây, Philippines cũng phải cân nhắc khá tinh vi và hiển nhiên là nhớ lại kinh
nghiệm hợp tác khá bẽ bàng để cùng thăm dò năng lượng với Trung Quốc vào cuối
năm 2004.
-
Dù sao, Philippines còn có thỏa ước an ninh với Hoa Kỳ từ năm 1951, Việt Nam
thì không và đang phải trả giá cho những lầm lẫn chiến lược của mình khi đứng
cùng Trung Quốc từ mấy chục năm nay. Việc Hà Nội vừa phê chuẩn Luật biển lại
cấm dân chúng biểu tình về công lý ngoài biển cho thấy lãnh đạo Việt Nam vẫn
chưa ra khỏi sự lầm lẫn đó.
Vũ
Hoàng:
Bây giờ đến trường hợp thứ ba, là tính toán của các nước ở bên ngoài.
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: -
Chúng ta để ý đến vai trò của các nước ở xa, như Anh hay Canada với các tập
đoàn dầu khí đã hợp tác với doanh nghiệp Trung Quốc từ khá lâu. Ở xa vòng hoạn
nạn, họ có cái nhìn lý tài hơn là an ninh. Một cường quốc khác trong khu vực là
Ấn Độ thì cũng đã muốn tiến về hướng Đông và còn tìm cách liên doanh về dầu khí
với Việt Nam ở trong vùng tranh chấp ngoài Đông hải mà sau đó ngần ngại vì muốn
tránh trực diện đối đầu với Trung Quốc. Tôi nghĩ Nhật Bản và thậm chí cả nước
Úc cũng đang cân nhắc như vậy, giữa an ninh và kinh tế.
Vũ
Hoàng: Sau
cùng, thưa ông, còn có Hoa Kỳ với nhiều tập đoàn dầu khí đã muốn bắt cá hai tay
là định hợp tác với cả Việt Nam và Trung Quốc và thực tế thì đã làm ăn khá sâu
với doanh nghiệp Trung Quốc. Họ nghĩ sao trong vụ tranh chấp này?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:
- Trong kinh doanh thì người ta phải lo về lợi nhuận và chỉ chịu trách nhiệm
với cổ đông, nhưng cũng cân nhắc rủi ro về pháp lý và an ninh. Họ chưa thấy rủi
ro thì còn tiếp tục và có thể nghiêng về phía Trung Quốc.
-
Chúng ta không quên hàng năm, Hoa Kỳ có 1.200 tỷ hàng hóa giao dịch trên biển
Đông Nam Á, chủ yếu qua Eo biển Malacca và hai eo biển nhỏ hơn của Indonesia là
Sunda và Lombok. Vì cả quyền lợi kinh tế lẫn an ninh chiến lược, việc bảo vệ
quyền tự do lưu thông ngoài biển là chủ trương truyền thống của Mỹ. Bắc Kinh đã
vì quyền lợi riêng mà cản trở tiến trình toàn cầu hóa và tự do chuyển vận trên
các dòng hải lưu nên trở thành một vấn đề Nhưng, chính là động thái quá
đáng vừa qua của Bắc Kinh mới lại gây ra rủi ro lớn và sẽ làm thay đổi cách
tính toán của thiên hạ. cho thế giới và trước hết cho Hoa Kỳ. Như lãnh đạo xứ
này đã phát biểu, Hoa Kỳ không chủ trương bao vây hoặc tấn công Trung Quốc và
còn muốn mời Trung Quốc vào tiến trình tự do hóa việc lưu thông ngoài biển.
-
Nhưng chính Bắc Kinh đang khiến lãnh đạo Mỹ phải có đối sách cứng rắn hơn và
đang cố gắng tranh thủ hậu thuẫn của hàng loạt quốc gia trong vành cung Á châu
Thái bình dương. Yếu tố đó cũng chi phối cách suy tính của các nước trong vùng.
Vũ
Hoàng: Câu
hỏi cuối thưa ông, Việt Nam nên suy tính thế nào về chuyện này?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa:
- Thứ nhất là định nghĩa lại về quyền lợi, đó là quyền lợi của quốc gia và dân
tộc hay của một đảng độc quyền đang cai trị cả nước. Thứ hai, khi đã xác định
quyền lợi tối thượng thì phải tìm cách bảo vệ, trước hết bằng nội lực sau đó là
ngoại giao. Khi chà đạp nhân quyền và mất thế hợp tác sâu rộng hơn về quân sự
với Hoa Kỳ thì lãnh đạo Hà Nội đã sai lầm về quyền lợi, cũng tai hại như để nạn
tham ô lan rộng trong các tập đoàn nhà nước và làm nản chí giới đầu tư quốc tế,
làm suy sụp hệ thống kinh tế của mình. Thứ hai, Việt Nam không thể và không nên
là tiền đồn của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á nhưng phải cho Bắc Kinh thấy ra những tổn
thất của họ khi muốn biến Đông hải của Việt Nam thành vùng trái độn quân sự của
họ. Muốn như vậy thì trước hết phải có chí khí và thoát khỏi lối tính toán lý
tài, thiển cận hiện nay. Có như vậy thì mới hy vọng hợp tác với các nước để
cùng giải quyết vấn đề Trung Quốc của thế giới.
Vũ
Hoàng:
Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.
Copyright
© 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved
No comments:
Post a Comment