Cập nhật: 27.06.2011 20:00
Ngày trước, dưới ách đô
hộ của thực dân Pháp, lúc mới ra đời, đảng Cộng sản Việt Nam đã giương cao cùng
lúc hai ngọn cờ: độc lập và dân chủ. Họ thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương
để đoàn kết toàn dân chống giặc và giành độc lập cho đất nước. Cuối cùng, tháng
9 năm 1945, họ đã đạt được cả hai mục tiêu: giành độc lập và giành chính quyền.
Thế nhưng, từ đó về sau, chỉ tập trung vào việc củng cố quyền lực của đảng,
họ từ bỏ hẳn lý tưởng dân chủ. Về lý thuyết, họ chủ
trương độc đảng và chuyên chính vô sản. Trên thực hành, họ càng ngày càng siết
chặt bộ máy kiểm soát và trấn áp để không ai có thể chống lại họ, thậm chí,
không nghe lời họ.
Có một thời gian
rất dài, cả mấy chục năm, từ 1955 ở miền Bắc, và từ năm 1975 trong cả nước, cho
mãi đến vài năm sau thời đổi mới, họ sử dụng ba biện pháp chính để kềm kẹp dân
chúng: sổ hộ khẩu, sổ lương thực và công
an khu vực. Mọi người đều bị kiểm soát. Lúc nào cũng bị kiểm soát.
Kiểm soát từ chỗ ở đến cái ăn cái uống và mọi sinh hoạt, từ xã hội đến tín
ngưỡng, văn hóa và chính trị. Không nơi đâu là không có mắt công an theo dõi.
Để biện chính cho sự độc tài thô bạo ấy, họ nhân danh hai
điều: một, viễn tượng xã hội chủ nghĩa; hai, độc lập dân tộc và/hoặc thống nhất
đất nước. Để hoàn tất hai lý tưởng lớn lao và cao cả ấy, mọi người chấp nhận hy
sinh quyền tự do và dân chủ của mình. Người ta hy vọng đó chỉ là những hy sinh
ngắn hạn. Một lúc nào đó, đất nước đã thống nhất và/hoặc độc lập, nền tảng của
chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng, mọi người không những ăn no mặc ấm mà còn
được tự do và hạnh phúc.
Nhưng khi chiến tranh kết thúc, dân chủ vẫn tiếp tục bị hy sinh. Người ta lại nêu lý do: thời hậu chiến, đất nước còn nhiều khó khăn và
nguy hiểm. Ở biên giới phía Tây, Khmer đỏ hăm he đánh phá Việt Nam. Ở biên giới
phía Bắc, Trung Quốc đòi dạy Việt Nam một bài học. Ở khắp nơi, ai cũng nhìn
Việt Nam bằng cặp mắt nghi ngờ và thù địch. Ước nguyện dân chủ, một lần nữa,
lại bị đè bẹp.
Sau này, khi phong trào đổi mới đã đâm hoa kết trái, kinh
tế Việt Nam phát triển khá nhanh, đời sống mọi người dễ chịu hơn nhiều, quan hệ
với thế giới cũng tốt đẹp hơn hẳn. Tuy
nhiên, chính quyền cũng vẫn từ chối dân chủ. Lần này, họ nêu lý do chính:
Việt Nam cần ổn định để phát triển. Họ biến dân chủ thành một con ngáo ộp chỉ
gây hỗn loạn, rồi chiến tranh, và cuối cùng, dẫn đến một nền độc tài mới còn
tàn bạo hơn nữa! Lần này, không mấy ai tin vào luận điệu trì hoãn dân chủ ấy,
nhưng chính quyền vẫn mặc kệ. Họ vẫn khăng khăng tuyên bố: Việt Nam không cần
đa nguyên đa đảng, nghĩa là, nói cách khác, Việt Nam không cần dân chủ! Hỏi:
Tại sao? Họ đáp: tại nhân dân muốn thế! Nếu ai hỏi tiếp: Làm sao biết nhân dân
muốn thế? Họ sẽ làm thinh và tìm cách bắt bớ.
Bây giờ, đất nước lại đối diện với một tình hình mới: nguy cơ xâm lấn của
Trung Quốc. Có lẽ đảng Cộng sản và chính quyền lại vẫn giở chiêu bài
cũ ra để tiếp tục từ chối dân chủ: Việt Nam cần thống nhất để mạnh mẽ chống lại
những đe dọa từ bên ngoài. Tuy nhiên, lần này, họ lại sẽ đối diện với những
nghịch lý và những thử thách mới lớn lao và khó khăn hơn gấp bội. Bởi, khái
niệm dân chủ hiện nay, trong thời điểm này, có một nội dung hoàn toàn khác:
Không phải là đa nguyên hay đa đảng nữa; không phải xóa bỏ điều 4 trong Hiến
pháp hay lật đổ chính quyền hay vị thế lãnh đạo của đảng Cộng sản nữa. Phong trào dân chủ hiện nay,
trong thời điểm này, có một nội dung rất giới hạn: dân chúng được quyền bày tỏ
lòng yêu nước của mình; được quyền bày tỏ sự công phẫn trước đe dọa từ bên
ngoài; được quyền yêu sách chính phủ phải có chính sách sáng suốt, đúng đắn và
tự trọng trước những thái độ xâm lấn ngang ngược và trắng trợn của Trung Quốc.
Không có một luận điệu nào có thể đứng vững được nếu muốn
chống lại các yêu sách chính đáng ấy.
Thứ nhất, chống lại các yêu sách ấy, chẳng hạn, chống lại các cuộc
biểu tình yêu nước của dân chúng hay bắt bớ những người xuống đường chống lại
Trung Quốc như những điều họ đã làm trước đây, họ sẽ hiện ra, dưới mắt dân
chúng, như những kẻ hoặc phản quốc, hoặc nhẹ nhàng hơn, hèn hạ trước nguy cơ
ngoại xâm. Tất cả các huyền thoại gắn liền với quá khứ gian khổ của họ trong
mấy cuộc chiến tranh vừa qua chắn chắn sẽ bị sụp đổ. Tính chính đáng trong
quyền cai trị của họ sẽ bị sụp đổ theo.
Thứ hai, như là hệ quả của điều trên, khi từ chối sự tham gia bày
tỏ thái độ hoặc ý kiến của dân chúng, họ sẽ dần dần bị cô lập ngay trên đất
nước mà họ cai trị.
Thứ ba, bị cô lập như thế, họ không thể huy động sức mạnh của
nhân dân như một chiến lược cần thiết, nếu không nói là thiết yếu, để chống lại
sự uy hiếp của một nước lớn và mạnh như Trung Quốc. Xin lưu ý: cho đến nay, khi
bàn đến kế hoạch chống Trung Quốc, hầu hết những người lãnh đạo Việt Nam chỉ đề
cập đến những chuyện như pháp lý hay hậu thuẫn quốc tế mà rất hiếm khi đề cập
đến nhân dân. Người ta cố tình né tránh hai chữ “nhân dân”. Ngay các cuộc biểu
tình chống Trung Quốc của nhân dân cũng bị giới truyền thông chính thống trong
nước sửa lại thành những cuộc “tụ tập” vớ vẩn! Trong một đoản văn có nhan đề
"Mình sợ" đăng trên blog Quê Choa mới đây, Thanh Chung cảnh báo một nguy cơ
"mất nhân dân trước khi mất nước".
Thứ tư, khi bị cô lập như thế, họ sẽ không đủ sức mạnh để đương
đầu, thậm chí, đối thoại với Trung Quốc. Họ không thể ngồi vào bàn đàm phán như
những kẻ cô đơn, bị cô lập ngay từ trong nước được. Họ phải chứng tỏ họ được sự
hậu thuẫn tích cực và vô điều kiện của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam. Chính
khối đa số hùng hậu ấy sẽ tạo nên sức nặng cho điều họ muốn thương thảo.
Có thể nói, trong
tình hình hiện nay, chính quyền Việt Nam sẽ rất khó giữ được chủ quyền và độc
lập nếu không chấp nhận dân chủ, ít nhất ở mức độ khiêm tốn nhất của khái niệm
dân chủ: quyền bày tỏ quan điểm và quyền tham dự vào việc nước của nhân dân.
Không ai có thể chấp nhận chuyện tiếp tục nhắm mắt và bịt
miệng lại để “phải tin” vào đảng và chính quyền như trước nữa.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog
được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập
trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment