24-7-2012
Ngày hôm nay qua
quyển Hắc thư của Chủ nghĩa cộng sản (Le Livre noire du Communisme), qua Tượng đài Kỷ niệm những Nạn nhân của chế độ
cộng sản, qua Tòa án Quốc tế xử chế độ diệt chủng Pol Pot, người ta chỉ nghĩ
đến những thiệt hại vật chất của chế độ cộng sản, mà người ta ít nghĩ đến những
thiệt hại tinh thần.
Thực ra những
thiệt hại tinh thần vô cùng lớn lao, không biết đến bao giờ chấm dứt, nhất là
những nước còn sống dưới chế độ cộng sản như Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn và
Cu Ba. Chúng ta hãy sơ lược về di hại cả vật chất, lẫn tinh thần của chế độ
cộng sản, và cùng suy nghĩ làm thế nào để chấm dứt những di hại này.
I) Sơ lược di
hại về vật chất
Di hại vật chất,
đó là đi theo lời huấn dạy vừa sai lầm vừa không tưởng của Marx, nghĩ rằng
người ta có thể bãi bõ quyền tư hữu, nhưng thực tế quyền tư hữu chỉ có thể
chuyển nhượng, đảng cộng sản, sau khi dùng bạo lực cướp chính quyền, đã phát
động phong trào "Đánh tư bản mại sản", tước hết quyền tư hữu
của dân, rồi trao vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ.
Những cuộc đánh tư
bản mại sản này làm cho đại đa số dân trở nên nghèo khổ, rồi chuyển nhượng tài
sản của dân vào tay cán bộ, làm cho họ trở nên những ông tư bản đỏ giàu nứt đố
đổ vách, như chúng ta chứng kiến ngày hôm nay.
Không những thế,
nó còn làm cho cả trăm triệu người chết oan uổng, vì chính sách: "Trí
phú hào, đào tận gốc, trốc tận rễ", giết chết giai tầng sĩ phu trí
thức, xương sống của một xã hội, làm cho xã hội trở nên què quặt. Trong khi đó
thì ruộng vườn nhà cửa bị sung công, tạo nên cảnh: "Cha chung không ai
khóc, nhà chung không người chăm sóc, ruộng chung không ai cày".
Theo một nhóm sử
gia Pháp, các ông Stéphane Courtois, Nicolac Werth, Jean louis Panné, André
Paczkowski, Karel Bartosek, Jean louis Margolin, trong quyển "Le
Livre noir du Communisme" (Hắc Thư về chủ nghĩa cộng sản - nhà xuất bản Laffont –
1997), thì nạn nhân của
chế độ cộng sản được chia ra như sau:
- Liên Xô: 20
triệu người.
- Trung Cộng, 65
triệu.
- Việt Nam, 1
triệu.
- Bắc Hàn, 2
triệu.
- Căm Bốt, 2
triệu.
- Đông Âu, 1
triệu.
- Châu Mỹ La Tinh,
150 000.
- Phi Châu, 1,7
triệu.
- A Phú hãn, 1,5
triệu.
- Phong trào cộng
sản quốc tế và những đảng cộng sản không nắm chính quyền, mấy chục ngàn người.
Thực ra con số này
là con số quá ít, chúng ta cứ lấy trường hợp Việt Nam, ngoài những người chết
vì bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, trong cuộc tấn công Tết Mậu thân 1968,
còn biết bao nhiêu thế hệ bị chết oan uổng bởi chiến tranh đánh vào miền Nam,
do cộng sản chủ mưu, núp dưới danh hiệu "Giải phóng", nhưng
thực tế là muốn nhuộm đỏ miền Nam, theo kế hoạch của cộng sản Nga Tàu.
Con số 20 triệu ở
Nga, nhiều nhà sử gia cũng cho là ít, họ ước đoán là khoảng 35 tới 40 triệu.
Đối với Tàu cũng
vậy, theo 2 nhà sử gia Jung Chang và Jon Halliday, trong quyển Mao: The
Unknown Story (Mao - Câu Chuyện Chưa Được Biết - nhà xuất bản Gaillimard –
Paris – 2 006), thì con số phải
lên ít nhất là 70 triệu.
Một trong những
người ý thức rõ sự tai hại của chế độ cộng sản, ta phải nói đến ông Boris
Eltsine, Ủy Viên Bộ Chính trị, Tổng thống nước Nga sau này. Trong bài diễn văn
nhậm chức nhiệm kỳ đầu, vào năm 1992, ông có nói:
"Vào đầu thế
kỷ 20, nước Nga đang ở chung một con tàu cùng với thế giới, nước Nga không phải
là đầu tàu, nhưng cũng ở trong những toa tàu hạng nhất. Thế rồi nước Nga nghĩ
rằng mình có thể có một đường lối phát triển riêng biệt, đã tách khỏi đoàn tàu.
Không dè nước Nga bị dậm chân tại chỗ. Ngày hôm nay về phát triển nước Nga bị
tụt hậu hàng nửa thế kỷ, nếu không muốn nói là hàng thế kỷ."
Ở đây vì lý do
chính trị, ông không nói rõ, nhưng ai cũng hiểu ông ám chỉ thủ phạm là Lénine,
Đảng cộng sản Liên sô và Đệ Tam quốc tế Cộng sản.
Thực vậy Lénine
không hiểu sai lầm của lý thuyết Marx, nghĩ rằng đây là thần dược, không những
thực hiện ở nước mình, mà còn tìm cách xuất cảng ra nước ngoài.
Lúc đầu là qua các
nước Tây âu, nhưng thất bại như vụ nổi dậy ở Đức qua phong trào Spartakus, một
phần do phe cực tả của Đảng Dân chủ Xã hội Đức, tách ra khỏi đảng, nổi lên ở
Berlin, vào tháng 1/1919; trước đó ở Hung gia lợi, đảng Xã hội, liên hiệp với
đảng Cộng sản, dưới sự lãnh đạo bởi Béla Kun, nổi lên vào tháng 3/1918; nhưng
cũng thất bại.
Xuất cảng sang
phía tây không thành, Lénine tìm cách xuất cảng sang đông.
Vào năm 1923, tại
Đại Hội Đệ Tam quốc tế Cộng sản, với sự có mặt cuối cùng của Lénine, ông đã
tuyên bố:
"Chế độ cộng
sản đi qua cửa ngõ New Delhi, Bắc Kinh, Moscou, rồi mới tới Paris, Luân
Đôn."
Chính vì vậy mà có
Hiệp ước thân thiện Lénine - Tôn Dật Tiên vào cùng năm, rồi ông mở ra trường
Đông phương sau này, lúc đầu mang tên trường Tôn Dật Tiên.
Con vi trùng độc
hại cộng sản bắt đầu tràn sang Á châu. Giới trí thức tả phương đông, đặc biệt
là của 2 nước Tàu và Việt Nam, cũng cho rằng lý thuyết Marx là thần dược, không
ngần ngại chấp nhận, chạy theo và áp dụng, trong đó chúng ta phải kể Trần Độc
Tú, Lý đại Siêu, 2 người được coi là sáng lập viên của Đảng Cộng sản Tàu, tiếp
theo là Lưu Thiếu Kỳ, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình. Ở Việt Nam phải kể Hồ Chí
Minh, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Duẩn.
Trong những người
trí thức và lãnh đạo chính trị sáng suốt ở Việt Nam, người ta thấy có cụ Phan
Bội Châu, và ở bên tàu, có tướng Tưởng Giới Thạch.
Cụ Phan Bội Châu,
vào những năm đầu của thập niên 20, cụ đã được những người của Đệ Tam Quốc tế
Cộng sản tiếp xúc, chiêu dụ cụ vào tổ chức, nhưng cụ từ chối. Cụ có nói: "Tôi
chẳng duy tâm, cũng không duy vật, tôi chỉ duy dân."
Tướng Tưởng Giới
Thạch cũng vậy. Sau Hiệp ước thân thiện Tôn Dật Tiên – Lénine, ông đã được họ
Tôn, vì lúc đó ông là tay em, gửi sang Liên Sô học. Nhưng ông không ở lâu để
học, mà ông về nước ngay.
Người ta hỏi:
"Tại sao Tướng quân không ở đấy để học?" Ông trả lời: "Ở đấy
không có gì để tôi học." Sau đó ông nói thêm:
"Một con
người không có xương sống thì suốt đời chỉ nằm hay bò. Xương sống của một xã
hội là giai tầng trung lưu và sĩ phú trí thức. Nay cộng sản chủ trương tiêu
diệt 2 giai tầng này, chỉ làm cho xã hội đó trở nên què quặt. Không tiến
nổi."
Về sau này, vào
những năm 30 và 40, trong trận chiến với Nhật và tiêu diệt cộng sản, ông đã
tuyên bố: "Cộng sản như bệnh trong xương tủy. Nhật bản như bệnh ngoài
da. Vì vậy phải chủ trương diệt cộng sản trước. Trước sau Nhật bản sẽ thua vì
Đại Chiến."
Tuy nhiên, câu nói
này quả thật là đúng, quả thật là nhìn xa, trông rộng, như chúng ta ý thức ngày
hôm nay. Tuy nhiên vào lúc đó có nhiều người hiểu lầm ông. Đây cũng là một
trong những nguyên do chính, khiến ông bị thua bởi Mao trạch Đông.
II) Sơ lược di
hại về tinh thần
Di hại về tinh
thần, đó là cũng theo lời huấn dạy của Marx,
để tạo dựng một nền văn hóa, văn minh mới, thì phải phá hủy tất cả những gì
thuộc về văn hóa, văn minh cũ, đi đến chỗ phá đền đài, phá chùa, phá nhà
thờ. Những giá trị nhân bản cổ truyền, dạy dỗ con người trở nên thực sự là
người, bị chà đạp, đổ xuống sông, xuống biển một sớm, một chiều, con người
không phải là con người, mà trở về đời sống cầm thú, súc vật, mạnh được, yếu
thua. Cộng thêm với quan niệm duy vật hiểu theo nghĩa thấp hèn của nó và quan
niệm bạo động lịch sử, con người ngay cả bố con, vợ chồng, bạn bè không còn như
xưa nữa, mà sẵn sàng giết nhau, hại nhau vì một vài trăm $, như chúng ta thấy
hiện nay ở Việt Nam và Trung Cộng.
Ngày xưa, Tản Đà
có câu: "Văn minh Đông Á trời thâu sạch. Này lúc cương thường đảo ngược
ru." Thực ra, với chế độ cộng sản, không những văn minh đông phương,
mà cả văn minh tây phương, nước nào bị cai trị bởi cộng sản, đều lâm vào cảnh "Cương
thường đảo ngược", từ vật chất đến tinh thần.
Thực vậy, chế độ cộng
sản được dựng lên trên nền tảng lý thuyết không tưởng của Marx và Engels, cho
rằng phải phá hủy tất để xây dựng thiên đàng cộng sản.
Từ đó, người cộng
sản, khi cướp được chính quyền, có võ lực trong tay, không từ một hành động
nào, từ chém giết, dối trá, lừa bịp, khủng bố, dọa nạt, mị dân đến chỗ mị chính
bản thân mình, để thực hiện lời dạy của Marx.
Chế độ cộng sản là
một chế độ độc tài toàn diện, cực quyền, nắm giữ, kiểm soát tất cả mọi sinh
hoạt của đời sống con người, từ triết lý đến chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo
dục, công an, quân đội.
Vì vậy, họ đã dùng
tất cả những thứ này, cộng thêm với những thủ đoạn ác ôn, côn đồ, hèn hạ, để
thay đổi xã hội mà họ cai trị.
Vì vậy,
1- Chế độ cộng sản
là một chế độ cai trị dân bằng cái loa, cái còng và cái súng, nên đã làm cho
người dân, hoặc trở nên u mê, hoặc trở nên sợ hãi.
2- Từ đó chế độ
cộng sản làm cho người dân trở nên hèn nhát, nhu nhược.
3- Và cũng từ đó
chế độ cộng sản làm cho đạo đức băng hoại, kỷ cương suy đồi, nhất là với tư
tưởng của Marx chủ trương phá hủy mọi nền văn hóa, văn minh cũ, để xây dựng lên
một nền văn hóa, văn minh mới, qua quan niệm "Tam Vô" (Vô tôn giáo,
vô gia đình, vô tổ quốc), qua hành động “Trí phú hào, đào tận gốc, trốc tận
rễ.”
Thánh Gandhi có
nói câu:
“Năm tội ác của
một xã hội: 1) Làm chính trị không cần nguyên tắc. 2) Thịnh vượng không cần làm
việc. 3) An nhàn không cần đạo lý. 4) Khoa học không cần nhân đạo. 5) Tín
ngưỡng không cần hi sinh.”
Năm tội ác này áp
dụng cho chế độ cộng sản quả thật không sai.
Nguyên do tại đâu?
Có thể nói nó bắt
nguồn xa xưa từ Marx cho đến Lénine rồi tiếp theo giới lãnh đạo con cháu.
Marx chủ trương “Làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, “Một xã hội an nhàn không cần đạo
lý.”
Lénine chủ trương
làm chính trị không cần nguyên tắc, miễn sao có lợi cho mình và cho đảng.
Rồi ngày hôm nay ở
Việt Nam, phá thai bừa bãi, nhà thương thay vì cứu người lại à nơi tham ô, hối
lộ; chùa, nhà thờ mọc lên như nấm với những “ông sư quốc doanh, linh mục
quốc doanh”, đó chính là khoa học không cần nhân đạo và tín ngưỡng mà không
cần hi sinh, hơn thế nữa lợi dụng tín ngưỡng để kiếm tiền.
Xã hội cộng sản
quả thật là một xã hội loài người nhưng mất hết nhân tính, xã hội do loài quỉ
đỏ cai trị.
Chính vì vậy mà
ông Lê Xuân Tá, Phó Trưởng Ban Khoa học và Kỹ thuật của Trung Ương Đảng Cộng
sản Việt Nam trước đây có viết, vào thời điểm những chế độ cộng sản Liên sô và
Đông Âu sụp đổ:
“Sự ngu dốt và sự
thấp hèn tự nó không đáng trách. Nhưng sự ngu dốt và thấp hèn mà được trao
quyền lực và cấy vào vi trùng ghen tị, thì nó trở thành quỉ nhập tràng.
“Và con quỉ này,
nó ý thức rất rõ rằng cái đe dọa quyền và lợi của nó chính là sự hiểu biết, văn
hóa và văn minh; nên nó đã đánh những thứ này một cách tàn bạo, không thương
tiếc.
“Nhưng chính vì nó
là thấp hèn và ngu dốt, nên những thứ này đã trở thành những sạn thận, sỏi mật,
trong lục phủ ngũ tạng của chế độ, làm cho chế độ không ai đánh mà tự chết.”
Tôi không đồng ý
với câu kết luận này, vì chúng ta không thể ngồi chờ sung rụng.
Và từ đó, một câu
hỏi đến với chúng ta:
Làm thế nào để
tiêu trừ những di hại của chế độ cộng sản. Câu hỏi này có thể được đặt ra dưới
dạng một câu hỏi khác, đó là:
Tại
sao cuộc cách mạng tự do, dân chủ, nhân quyền đã đến với Liên Sô, Đông Âu, rồi
tràn sang Tunisie, Ai Cập, Lybie, hiện đang ở Syrie và Miến Điện, thế mà vẫn
chưa đến Việt Nam. Làm thế nào để nó xảy ra tại Việt Nam?
Để trả lời câu hỏi
này, có rất nhiều nguyên do, vì cách mạng là một biến cố chính trị và lịch sử
rất to lớn. Ở đây tôi chỉ xin nêu ra một vài nguyên do chính đứng theo bình
diện của người chủ trương cách mạng.
Chế độ cộng sản Việt Nam là một chế độ
ác ôn, côn đồ, gian manh quỉ quyệt và đạo đức giả nhất trong những chế độ cộng
sản thế giới. Ác ôn côn đồ vì
chúng không chừa bất cứ thủ đoạn nào để hăm dọa, trấn áp những người tranh đấu
vì tự do dân chủ, vì nhân quyền công lý. Chúng sử dụng những công an không còn
tính người, chỉ biết “còn đảng còn mình”; dùng những bọn giá áo túi cơm,
mệnh danh “quần chúng tự phát” đả thương, quấy nhiễu những thành phần
tranh đấu bất bạo động cho sự vẹn toàn lãnh thổ trước sự ngang ngược, bạo tàn
của Bắc phương, tranh đấu cho một xã hội không còn cảnh người đàn áp người,
người hành hạ người hơn loài lang sói.
Gian manh quỉ quyệt vì chúng là một chế
độ bán nước hại dân, nhưng chúng đã núp
dưới chiêu bài quốc gia, dân tộc, “Đuổi Pháp, đánh Mỹ” để lừa bịp dân tộc và cả toàn dư luận quốc tế. Ngay từ đầu khi thành lập
đảng cộng sản Hồ chí Minh và bè lũ đã tự nguyện trung thành với Đệ tam Quốc tế
Cộng sản, tự đưa dân tộc và đất nước trở thành con chốt hy sinh cho tham vọng
bành trướng của Nga Tàu. Lê Duẩn, cựu bí thư của đảng cộng sản Việt Nam đã
không ngượng miệng khi tuyên bố “Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Liên sô”.
Quỉ quyệt vì chúng đã biết rằng “Đánh rắn là phải đánh dập đầu”, vì vậy từ đầu chúng đã tìm mọi cách ám hại, thủ tiêu những người yêu
nước không cùng chính kiến, không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản như các cụ Phan
Bội Châu, Lý Đông A, Trương Tử Anh. Ngày nay chúng bắt bớ giam cầm hay quản
thúc tại gia, cho công an canh giữ, cô lập những lãnh tụ đối lập, từ tôn giáo
đến chính trị, như Hòa Thượng Thích Quảng Độ, Linh mục Nguyễn văn Lý, bác sĩ
Nguyễn Đan Quế, blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và nhiều người khác.
Thêm vào đó chúng
biết rằng làm việc gì cũng phải có niềm tin và tổ chức, nên chúng đã tìm cách
chia rẽ, xâm nhập vào hàng ngũ chống cộng để xuyên tạc, tung tin thất thiệt,
làm lay động niềm tin. Đồng thời chúng tìm cách kiểm soát, cô lập tối đa người
này với người kia, vì không có liên lạc thì khó có thể tạo được niềm tin và tổ
chức.
Chế độ cộng sản đã
được thử nghiệm gần 1 thế kỷ nay, đã hoàn toàn thất bại, mang rất nhiều di hại
về cả vật chất lẫn tinh thần cho bất cứ xã hội nào bị cai trị bởi nó. Điều này
toàn thế giới đã thấy và dân Việt Nam ý thức rõ hơn ai hết, chỉ có một thiểu số
đảng đoàn cán bộ, vì đặt quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi của quốc gia dân
tộc nên mới cố bám víu vào quyền hành, cai trị dân bằng cái loa để mị dân, cái
còng và cái súng để dọa nạt dân, làm cho dân sợ. Thêm vào đó chúng còn áp dụng
chính sách giáo dục nhồi sọ, xuyên tạc sự thật, tôn thờ lãnh tụ, nhằm mục đích
ngu dân, ngõ hầu kéo dài ngày sụp đổ của chế độ do chúng dựng lên.
Chính vì lẽ đó mà
để làm cuộc cách mạng chống cộng sản ở Liên sô, những nhà trí thức Nga đã lấy
câu châm ngôn làm kim chỉ nam: “Sự thật nặng hơn quả địa cầu”, Đức Giáo hoàng Jean Paul II, vừa mới lên ngôi, về thăm Ba Lan, đã
khuyên dân Ba lan: “Đừng sợ hãi và hãy hy vọng”. Ngày hôm nay, bạo quyền ở bất cứ nơi nào cũng không thể cấm đoán dân,
nhất là giới trẻ tiếp cận với Internet, nên Ghonim, người chính trong cuộc cách
mạng ở Ai Cập, đã nói: “Để làm cách mạng ngày hôm nay, chuyện chính là làm
cho dân và nhất là giới trẻ tiếp xúc với Internet.”
Nói lên sự thật, dựng lại niềm tin, đó
là công việc làm của mỗi người Việt ở quốc nội, cũng như ở hải ngoại, nên ý
thức rõ để thực hiện. Nhưng đây là một
công việc đòi hỏi sự kiên trì, đi chính từ bản thân, đến những người chung
quanh, bắt đầu từ những người trong gia đình, có thể tin tưởng được, tạo cho họ
niềm tin, rồi theo vết dầu loang, một truyền 2, rồi 2 truyền 4, cứ như thế kiên
trì mà thực hiện.
Tất nhiên sau đó
phải có kế hoạch và tổ chức. Bất cứ một tổ chức cách mạng chống bạo quyền, độc
tài nào, thường cũng có 2 phần, hoàn toàn biệt lập nhau: phần nổi và phần chìm.
Phần nổi để thức
tỉnh dân, để báo động với quốc tế rằng “Chúng tôi vẫn còn đây, vẫn kiên trì
đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền”, nhiều khi cũng
bị mất mát, hy sinh. Nhưng nhiều khi phải chịu. Phần chìm mới quan trọng, đây
là cơ quan sửa soạn hạ tầng, để làm nên những đợi sóng ngầm, đợi đúng thời cơ,
thì những đợt sóng này sẽ nổi lên cuốn đi những rác rưởi đã làm ngăn cản giòng
lịch sử dân tộc, cuốn đi những tham quan, ô lại, bạo chúa, bạo quyền.
Khi chúng ta đã có
tổ chức, có một đường lối tranh đấu, trong hợp với lòng dân, ngoài hợp với trào
lưu tiến bộ của nhân loại, đó là tranh đấu nhằm tạo dựng một nước Việt Nam Tự
Do Dân Chủ, tôn trọng Nhân Quyền và Tiến Bộ thì chắc chắn chúng ta sẽ có sự hậu
thuẫn của dân và sự ủng hộ của nhân dân và các nước yêu chuộng Tự Do và Công Lý
trên thế giới.
Tạo dựng niềm tin,
lòng cản đảm, tìm hiểu sự thật! Đầu tiên cho chính mình, sau đó cho người thứ
nhì, rồi người thứ ba, rồi mỗi người cứ tiếp tục làm như thế!
Đừng nghĩ rằng
không đi đến đâu cả, chỉ là công dã tràng. Nên nhớ: Một lâu đài to lớn
kia cũng chỉ bắt đầu được xây dựng với những viên đá, viên gạch nhỏ bé lúc ban
đầu. Một cuộc hành trình vạn dặm cũng bắt đầu bởi bước khởi hành đầu tiên.
(1)
Paris ngày
22/07/2012
__________________________
Xin xem thêm những
bài viết về Marx, trên http://perso.orang.fr/chuchinam/
No comments:
Post a Comment