Trong
bài thơ Giấc mơ nhỏ của tôi có một đoạn nói về sông Bến Hải và sự xa cách giữa
người Việt vẫn còn đang chảy trong lòng:
Chào
anh công nhân dệt từng tấm vải
Cho tôi làm con thoi nhỏ trên tay
Để tôi nối hai bờ sông Bến Hải
Nối lòng người vời vợi cách xa nhau.
Cho tôi làm con thoi nhỏ trên tay
Để tôi nối hai bờ sông Bến Hải
Nối lòng người vời vợi cách xa nhau.
Bài
thơ viết sau 1975, nghĩa là thời gian đất nước đã “thống nhất” bằng xe tăng và
đại pháo, bằng sân bắn và nhà tù. Tôi không chỉ viết ra mơ ước của mình thôi
nhưng đã nhiều lần làm con thoi nhỏ. Thay vì những buổi gặp gỡ nặng về hình
thức, nếu có cơ hội tôi thường mang những người một thời đã tìm đủ mọi cách để
giết nhau, ngồi lại bên nhau.
Một
lần cách đây cũng khá lâu, tôi mời hai người thuộc giới cầm bút đến nhà chơi.
Một nhà văn miền Bắc và một nhà văn miền Nam. Cả hai đều may mắn sống sót sau
cuộc chiến. Tên tuổi hai nhà văn không nằm trong danh sách hơn hai triệu người
Việt gởi xác ở Trường Sơn, Hạ Lào, Quảng Trị, An Lộc, Thường Đức, Tam Quan,
Bình Giã v.v… Nếu tính theo số lượng bom đạn do Mỹ, Liên Xô và Trung Cộng cung
cấp và số người chết trên một quốc gia có địa lý nhỏ hẹp, dân số không đông như
hai miền Việt Nam trước 1975, chiến tranh Việt Nam có thể được xem là một trong
những cuộc chiến tranh có mức độ tàn phá cao nhất trong lịch sử nhân loại.
Chiều
hôm đó, chúng tôi ngồi thành ba góc quanh chiếc bàn tròn nhỏ sau vườn. Một buổi
chiều êm ả hiếm hoi của mùa hè nóng bức. Hai nhà văn tôi mời đến đều nghe tên
nhau từ lâu lắm, đọc văn nhau nhưng chỉ gặp nhau hôm đó lần đầu. Họ rất ngạc
nhiên khi nghe tôi giới thiệu tên. Bắt tay mừng rỡ. Những tiếng “Thì ra, thì
ra…” dồn dập. Ánh mắt họ sáng lên niềm cảm động chân thành vì chẳng bao giờ họ
nghĩ có ngày gặp nhau trên xứ Mỹ này. Nhà văn miền Bắc kể lại hành trình gian
nan của anh từ Bắc vào Nam. Những đêm di chuyển đầy nguy hiểm, những ngày tránh
bom B52 trải thảm dọc Trường Sơn. Những trường hợp thoát chết trong đường tơ kẻ
tóc khi quân đội miền Nam hành quân qua khu vực anh đang trú ẩn. Nơi anh đóng
là vùng tranh chấp. Ban ngày Quốc Gia, ban đêm Cộng Sản. Người dân sống dưới
hai chế độ. Ban đêm khi lính rút về đồn, anh lại ra hoạt động. Dù sao anh chỉ
là nhà văn, nhà báo, không trực tiếp tham dự các trận đánh lớn nên không có
những tình tiết gay go hấp dẫn.
Nhà
văn miền Nam thì khác. Anh là người lính chiến dạn dày trận mạc. Anh kể lại vài
trận đánh đáng nhớ mà anh từng tham dự. Có một lần tiểu đoàn của anh được trao
trách nhiệm như một “cục đường để dụ kiến”. Vừa đổ quân xuống ngọn đồi không
bao lâu, đào công sự chưa xong, các cuộc tấn công liên tục của phe nhà văn miền
Bắc đánh vào. Mở đầu là những cơn mưa pháo. Pháo liên tu bất tận. Pháo không
ngừng nghỉ. Pháo ngày đêm. Phe nhà văn miền Nam bị thiệt hại khá nặng. Anh tiểu
đoàn trưởng hy sinh ngay trong trận pháo đầu. Sau vài ngày pháo kích, các đơn
vị của phe nhà văn miền Bắc từng đợt tấn công. Quá đông. Tỉ lệ có thể nói là
mười đánh một. Đơn vị của nhà văn miền Nam phải chọn cái sống trong cái chết,
và chống đỡ là con đường duy nhất. Bằng mọi giá phải giữ ngọn đồi. Mà cho dù có
muốn rút lui cũng không rút được. Cuối cùng, phe nhà văn miền Nam giữ được ngọn
đồi. Như đã tính toán, sau đó, các phi đoàn mở ra hàng loạt các cuộc oanh tạc
và pháo binh của phe nhà văn miền Nam tập trung bắn nát chẳng những chung quanh
ngọn đồi mà cả các khu rừng bên ngoài “cục đường”. Chung quanh ngọn đồi nhỏ
ngập đầy xác chết. Sau trận đánh, những chiếc xe ủi đất của công binh đào một
đường mương dài, đủ sâu để khỏi hôi thối và xúc hàng trăm xác chết của phe nhà
văn miền Bắc đổ vào trong đó. Phe nhà văn miền Nam cũng chẳng hơn gì. “Cục
đường” đen đã chảy thành những vũng máu đỏ. Những công sự, những căn hầm bị
pháo sập trở thành những ngôi mộ chôn xác đồng đội của anh. Những chiếc trực
thăng tải thương hạ cánh mang theo xác anh tiểu đoàn trưởng và rất nhiều bạn bè
mới chia nhau điếu thuốc hôm qua nay đã nghìn thu cách biệt. “Nếu lúc đó không
giữ được ngọn đồi thì sao?” Nhà văn miền Bắc hỏi. “Thì chết hết chớ sao, cục
đường mà”. Nhà văn miền Nam trả lời. Anh cười, một nụ cười mang ít nhiều chua
chát.
Nhưng
rồi anh nói tiếp: “Chắc là anh nghĩ tôi lúc đó căm thù ghê gớm lắm phải không?”
Có, nhưng không ghê gớm lắm đâu. Các anh bắn tôi và tôi bắn anh. Mà cho dù các
anh không bắn tôi thì tôi cũng bắn các anh. Chiến tranh mà. Xong thì thôi. Lòng
căm thù chế độ Cộng Sản trong tôi chỉ lên cao độ khi sống trong nhà tù Cộng Sản
và chịu đựng những cực hình đày đọa, những đối xử bất nhân, những tháng ngày
đói khát”.
Trời
sắp tối, hai anh đều có chuyện phải đi. Họ bắt tay từ giã nhau. Không ai xin
lỗi ai. Không ai tha thứ ai. Nhưng qua buổi tâm sự tôi biết, họ đã hiểu nhau
hơn, đã thấy được nhu cầu của một Việt Nam hôm nay và ngày mai phải thoát ra
khỏi chiến tranh, nghèo đói, độc tài và đi cùng nhân loại hòa bình, ổn định, tự
do và giàu mạnh.
Không
phải ai cũng có may mắn có dịp trang trải tấm lòng như nhà văn miền Bắc và nhà
văn miền Nam sau vườn nhà tôi lần nọ. Đó đây vẫn còn nhiều cái nhìn khắt khe
đối với những người đang tranh đấu cho tự do dân chủ với một quá khứ liên hệ
với đảng Cộng Sản. Cuộc chiến quá dài, ân oán quá sâu, không phải dễ dàng gì
thay đổi hết được. Người Ý, người Ba Lan khi giong buồm, nhổ neo rời cảng, họ
để lại quá khứ bên bờ biển chỉ mang trên vai ước vọng về một tương lai tốt đẹp
hơn cho họ và con cháu họ. Người Việt Nam thì khác. Người Việt ra đi mang theo
cả cuộc chiến tranh đầy máu và nước mắt. Nhiều trong số chú bác anh chị đến
được bến bờ tự do khi chiếc vết thương trên da thịt vẫn còn đang mưng mủ sau
bao năm tháng tù đày. Xiềng xích không còn, bom đạn đã thôi rơi nhưng tiếng
khua, tiếng thét như vẫn còn nghe trong giấc ngủ quê người. Thái độ, dù khắt
khe, quyết liệt hay cực đoan đi nữa cũng có lý do riêng của nó. Như nhà văn
miền Nam phát biểu, chính sách của đảng CSVN từ 1975 đến nay là nguyên nhân
trực tiếp của sự căm thù sâu thẳm trong lòng nhân dân Việt Nam nói chung và
miền Nam nói riêng, đối với chế độ CS và là mầm mống của sự phân hóa, chia rẽ,
hoài nghi trong cộng đồng người Việt. Nhưng dù lý do gì, các chú bác anh chị vì
tương lai con cháu mình, nên suy nghĩ lại và chọn những hình thức đấu tranh hữu
hiệu, thích hợp với thời đại ngày nay.
Con đường cách mạng dân chủ Việt Nam,
vì thế, khác và khó khăn hơn nhiều so với con đường đã diễn ra tại Bắc Phi và
tiến trình chuyển hóa dân chủ đang diễn ra tại Miến Điện.
Điều
kiện ra đời và tồn tại của chế độ độc tài toàn trị Cộng Sản tại Việt Nam không
giống các chế độ độc tài cá nhân như Muammar Gaddafi tại Lybia, Augusto
Pinochet tại Chile, Mobutu Sese Seko tại Zaire hay độc tài phe nhóm quân sự
(Junta) Miến Điện, Argentina, Peru, Nigeria, El Salvador và cũng không giống
như các chế độ Cộng Sản chư hầu chùm gởi của cây đại thụ Liên Xô một thời tồn
tại ở Đông Âu.
Phần
lớn các chế độ độc tài quân sự, dù cá nhân hay phe nhóm, hình thành do kết quả
của các cuộc đảo chính, lật đổ các chính phủ tiền nhiệm, nhiều khi cũng rất độc
tài. Cơ hội đã đưa một số sĩ quan từ vị trí của những người lính trở thành
những nhà chính trị. Ngoài lòng tham lam quyền lực và địa vị, họ không sở hữu
một vốn liếng chính trị và không có một sự chuẩn bị đầy đủ để lãnh đạo quốc
gia. Tham vọng quyền lực của họ chỉ là tham vọng cá nhân, phe nhóm. Muammar
Gaddafi của Lybia, Hosni Mubarak của Ai Cập nổi tiếng sắc máu nhưng gốc gác chỉ
là những viên sĩ quan võ biền. Các quốc gia Miến Điện, Libya, Ai Cập, Tunisia
cũng không trải qua cuộc chiến tranh ý thức hệ tàn khốc suốt mấy mươi năm và
vai trò của các đế quốc cũng không mang tính quyết định như trong cuộc chiến
Việt Nam.
Việt
Nam thì khác. Những người lãnh đạo CSVN được đào tạo để hoạt động, tổ chức,
lãnh đạo chuyên nghiệp, kiên quyết theo đuổi đến cùng các mục tiêu ngắn và dài
hạn của đảng CS. Chính Lê Duẩn trong tác phẩm quan trọng Dưới Lá Cờ Vẻ Vang Của
Đảng, đã xác định tham vọng nhuộm đỏ Việt Nam và “đưa cả nước tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Từ khi thành lập vào năm 1930 cho
đến nay, tuy khác nhau về chiến lược của mỗi thời kỳ và hoạt động dưới nhiều
tên gọi (Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương,
Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Nhân dân Cách mạng ở miền Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam) nhưng Đảng hoàn toàn nhất quán về tư tưởng và mục tiêu.
Nạn
sùng bái cá nhân dưới các chế độ độc tài không Cộng Sản có nhưng không tác hại
trầm trọng đến nhận thức của người dân. Mobutu Sese Seko của Congo là một ví
dụ. Nhà độc tài khát máu của Congo này sau các chuyến viếng thăm Bắc Hàn, Trung
Quốc, Rumani về đã bắt chước xây dựng một bộ máy tuyên truyền giống hệt như
Cộng Sản bằng cách ra lịnh thay đổi tên đường, tên phố, quốc kỳ, quốc ca, và
tháng 10 năm 1971 thay cả tên nước. Nhưng ngay cả khi Mobutu còn sống dân Congo
chẳng những không mấy quan tâm đến những thay đổi đó mà còn một cách châm biếm
gọi tên y là Mobutu Sesesescu chỉ vì Mobutu là bạn thân của tên độc tài Rumani
Nicholas Ceauşescu.
Việt Nam thì khác. Giống như “cha già
dân tộc” Kim Nhật Thành của Bắc Hàn, hình ảnh một “cha già dân tộc” Hồ Chí Minh
đã đóng một lớp băng dày trong nhận thức của nhiều người và ngay cả được thờ
chung một bàn thờ với đức Phật Thích Ca, không một phát hiện, một chứng cớ, một
tài liệu khoa học nào có thể làm lay chuyển niềm tin mù quáng vào Hồ Chí Minh
trong lòng những người Việt cuồng tín. Ý thức nô lệ tồn tại dưới hình thức tà
đạo đó không phải chỉ trong hàng ngũ đảng viên mà cả ngay trong những người đấu
tranh chống lại các sai lầm của lãnh đạo đảng.
Về
mặt lý luận, việc so sánh với hệ lý luận Cộng Sản với những lý thuyết biện minh
cho sự tồn tại của các chế độ độc tài như “Sách Xanh” (Green Book) của Muammar
Gaddafi hay Đường Miến Điện Dẫn Tới Chủ Nghĩa Xã Hội (The Burmese Way to
Socialism) chẳng khác gì đem giáo trình đại học so với sách tập đọc lớp vỡ
lòng. Tầng lớp cán bộ làm công tác tuyên truyền ở Miến Điện và Lybia chỉ là một
phường nịnh hót gió chiều nào theo chiều đó. Tại Lybia trước tháng Hai 2011,
với đại đa số dân chúng Sách Xanh mang tính cách giải trí nhiều hơn là lý luận.
Giáo sư Vandewalle của đại học Dartmouth và tác giả của Lịch Sử Libya Hiện Đại
(A History of Modern Libya) nhận xét Sách Xanh là một chuỗi những câu cách ngôn
chứ không phải là một hệ lý luận thông suốt và chẳng thuyết phục được ai. Sau
cách mạng dân chủ, dân chúng đốt hàng ngàn Sách Xanh không phải vì sợ “tư tưởng
Muammar Gaddafi” có cơ hội hồi sinh nhưng chỉ vì đó là biểu tượng của chế độ
độc tài.
Việt Nam thì khác. Giới lãnh đạo đảng
CSVN có cả kho lý luận, một bộ máy tuyên truyền tinh vi và những câu trả lời
thích hợp cho từng lứa tuổi, từng ngành nghề, từng giới, từng trình độ học vấn. Nền giáo dục một
chiều và phản khoa học như cây đinh đóng sâu vào ý thức của con người từ tuổi
ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Không ít người Việt, nhất là những người luôn
bắt đầu bằng câu rào đón “đừng nói là tôi bị tẩy não đấy nhé” đã bị tẩy não mà
không chịu thừa nhận hay không biết mình bị tẩy não. Với họ, sự có mặt của Đảng
Cộng sản trong đời sống chính trị và sinh hoạt xã hội Việt Nam tự nhiên chẳng
khác gì bốn mùa xuân hạ thu đông. Họ còn tin rằng chỉ có đảng CSVN với tư cách
một đảng cầm quyền, mới có khả năng dẫn dắt dân tộc Việt Nam trên con đường đi
đến một tương lai tươi sáng. Họ viện dẫn trong quá khứ đảng có vài chính sách
bị cấp dưới thực thi quá tả hay quá hữu nhưng về căn bản con đường đảng chọn
vẫn là con đường đúng, và tham nhũng là một hiện tượng xấu của mọi xã hội đang
từng bước đi lên vả lại ngay cả Anh, Mỹ, Pháp đều đầy dẫy đâu chỉ riêng tại
Việt Nam.
Chế độ Cộng Sản tại Việt Nam cũng không
giống như chế độ độc tài Cộng Sản tại các quốc gia Đông Âu. Mặc dù đảng Cộng
Sản tại các nước Đông Âu ra đời trước thế chiến thứ hai nhưng nếu không có sự
chiếm đóng của Hồng Quân Liên Xô và sự thỏa thuận của các cường quốc Anh, Mỹ,
Liên Xô, sẽ không có một nhóm quốc gia Cộng Sản được gọi là Cộng Sản Đông Âu.
Bản thân của định nghĩa “Cộng Sản Đông Âu” đối nghịch với khối các quốc gia dân
chủ Tây Âu, vốn đã mang nặng ý nghĩa chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh
nhiều hơn các ý nghĩa về văn hóa hay địa lý.
Việt Nam thì khác. Như tôi có dịp trình
bày, trong lúc các đảng Cộng Sản Đông Âu thực chất chỉ là những dây chùm gởi
sống nhờ vào sức mạnh của đồng Ruble, xe tăng và hỏa tiễn Liên Xô, khi cây đại
thụ Liên Xô thối ruột thì dây chùm gởi cũng khô héo theo, đảng CSVN bám sâu vào
cây đại thụ Việt Nam, sinh sôi nẩy nở bằng nhựa nguyên và nhựa luyện Việt Nam. Quá trình hình
thành và phát triển của đảng CSVN là một quá trình đầy ngộ nhận lịch sử và họ
tồn tại đến ngày nay, một phần lớn cũng nhờ vào những ngộ nhận đó. Cuộc chiến
thắng của đảng CSVN ngày 30-4-1975 là kết quả của cuộc lừa gạt lớn nhất trong
lịch sử Việt Nam.
Không
ít người Việt cho rằng sở dĩ Việt Nam không được quốc tế quan tâm đúng mức như
Miến Điện, Ai Cập chỉ vì chưa có những Giải Nobel Hòa Bình như Aung San Suu Kyi
của Miến Điện hay Mohamed ElBaradei của Ai Cập, nơi những tiếng nói của họ đã
được chính phủ khắp thế giới lắng nghe.
Thật
ra, tại Ai Cập quê hương của Mohamed ElBaradei và Miến Điện quê hương của Aung
San Suu Kyi, dù cai trị bằng bạo lực sắc máu, quyền con người trong các quốc
gia độc tài quân sự không hoàn toàn bị xóa bỏ. Chế độ thông tin, kiểm duyệt còn
nhiều kẻ hở. Qua các phương tiện truyền thông quốc tế, những gì xảy trong các
quốc gia này đều được thế giới biết được khá rõ. Các tổ chức đối lập, chống
chính phủ, công đoàn tuy bị trấn áp nhưng vẫn có cơ hội hoạt động. Đảng đối lập
Liên Đoàn Toàn Quốc Vì Dân chủ (National League for Democracy, viết tắt là NLD)
của bà Aung San Suukyi có cơ sở hạ tầng vững chắc và đã thắng 396 trong tổng số
485 ghế Quốc Hội trong cuộc bầu cử dân chủ công khai được quốc tế công nhận năm
1990 trước khi bị đám quân phiệt đàn áp. Các cơ sở từ trung ương đến địa
phương, kể cả đại diện của chính phủ NLD cạnh các chính phủ quốc tế bên ngoài
Miến Điện cũng đã duy trì các hoạt động trong suốt thời gian bà Aung San Suu
Kyi bị giam giữ tại nhà.
Thế
giới đang ca ngợi bà, ngoài đức tính can đảm và kiên trì với lý tưởng tự do còn
vì thái độ ôn hòa, chấp nhận đối thoại để giải quyết các vấn đề của đất nước.
Tuy nhiên không phải bao giờ thái độ ôn hòa, hợp tác cũng đem lại kết quả tốt.
Như có lần tôi đã viết, hòa giải hòa hợp là con đường hai chiều, không ai có
thể đứng bên này sông bắt người khác phải bơi qua sông để hòa giải với mình.
Trong điều kiện Miến Điện hay Việt Nam, hòa giải tùy thuộc trước hết vào chính
sách và thái độ của giới cầm quyền.
Không
giống như giới lãnh đạo Miến Điện cuối cùng đã thức tỉnh, tại Việt Nam, lời kêu
thương thống thiết của tầng lớp nhân dân bị áp bức suốt 37 năm qua chỉ là những
viên sỏi nhỏ rơi vào biển cả, không tạo nên gợn sóng, tiếng vang nào. Với tất
cả sự kính trọng dành cho bà Aung San Suu Kyi, nếu bà phải đối phó với cơ chế
lãnh đạo độc tài ngoan cố như Việt Nam, có thể bà phải chọn giải pháp của đức
Giám Mục Giáo Hội Anglian Desmond Tutu, Giải Nobel Hòa Bình 1984.
Chủ trương của đức Giám Mục Giáo Hội
Anglian Desmond Tutu là một bài học giá trị để đối phó chính sách ngoan cố của
chế độ độc tài.
Giám Mục Desmond Tutu trong cuộc đấu tranh chống Phân Biệt Chủng Tộc Nam Phi
vào thời điểm khốc liệt 1976, thay vì thỏa hiệp, đàm phán, đã kêu gọi thế giới
gia tăng cấm vận, tẩy chay hàng hóa Nam Phi, cô lập chính phủ Nam Phi, trừng
phạt kinh tế Nam Phi càng mạnh càng tốt mặc dù điều đó có ảnh hưởng trực tiếp
đến lực lượng lao động phần lớn là da đen. Giám Mục Tutu chống cả sáng kiến
thương lượng với chính quyền da trắng Nam Phi của Tổng Thống Reagan. Khi được hỏi
cấm vận và trừng phạt kinh tế chỉ làm cho dân da đen bị đói trước, ông thẳng
thắn tuyên bố nhân dân Nam Phi chịu đói nhưng đói “có mục đích”. Rất nhiều quốc
gia như Anh, Mỹ và công ty quốc tế hưởng ứng lời kêu gọi của đức Giám Mục. Nền
kinh tế Nam Phi bị khủng hoảng. Đồng Rand của Nam Phi mất giá đến 35 phần trăm
trong một thời gian ngắn. Để cứu vãn nền kinh tế, thực chất là cứu vãn gia tài,
lãnh đạo chính quyền da trắng đành phải nhượng bộ. Giám Mục Desmond Tutu được
trao giải Nobel Hòa Bình 1984, giải Nhân Đạo Albert Schweitzer 1986, giải
Sydney Peace 1999, giải Gandhi Hòa Bình 2005, Huân Chương Tự Do Tổng Thống Hoa
Kỳ 2009 và được thế giới ca ngợi nhờ vào vai trò của ông như nhân vật hàng đầu
trong nỗ lực giải quyết vấn đề phân biệt chủng tộc tại Nam Phi.
Việt Nam không thiếu những nhà đấu
tranh có nhiều năm thử thách trong lao tù, có đạo đức, có lý luận, có tâm huyết
nhưng chỉ vì chưa có điều kiện khách quan và chủ quan để những ánh đuốc tự do
được tỏa sáng xa hơn.
Các nhóm hoạt động vì dân chủ, các nhóm đối kháng với đảng CSVN gần như không
có một phương tiện nào. Ngoại trừ một số ít người hoạt động dân chủ tên tuổi
đang bị tù và được các cơ quan nhân quyền quốc tế được ghi nhận, hàng trăm,
hàng ngàn người đang bị đe dọa thường trực, trấn áp, tù đày trong các làng xã,
quận huyện xa xôi hay đang trốn tránh tại nhiều nơi trong vùng Đông Nam Á,
không ai biết được, không một tổ chức nào tổng kết hết được. Sự chịu đựng trong
âm thầm câm nín của các tầng lớp nhân dân Việt Nam so với nhân dân Miến Điện và
các nước Bắc Phi đau đớn hơn nhiều. Những bản án dài hạn chụp lên đầu những
người yêu nước khi họ chỉ vừa cất lên tiếng nói trước những bất công xã hội.
Người ít và thế cô. Giãi giang sơn Việt Nam hình chữ S thực chất là một nhà tù
được bao bọc bằng một bức tường bưng bít thông tin dày và một chế độ trấn áp
không thua tiêu chuẩn một nhà tù khắt khe quốc tế nào.
So
sánh và phân tích một số điểm khác nhau tiêu biểu giữa Việt Nam và các quốc gia
khác để thấy cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ Việt Nam khó khăn và phức tạp hơn
cuộc chuyển hóa dân chủ Miến và cách mạng hoa lài Bắc Phi nhiều lần.
Đấu
tranh chống lại một hệ thống cai trị tinh vi như CSVN như thế mà chúng ta chỉ
chen lấn nhau trong những chỗ đứng chật hẹp, co cụm trong những mẫu số chung có
tính địa phương, tôn giáo, bám víu vào những phạm trù, lý luận lỗi thời, sẽ
không giải phóng được dân tộc ra khỏi chế độ Cộng Sản.
Đảng
CSVN còn thống trị nhân dân Việt Nam được, vì ngoài nhà tù sân bắn, còn nhờ vào
việc gieo rắc các mầm mống phân hóa, khai thác các bất đồng không cơ bản, đào
sâu thêm hố hoài nghi chia rẽ trong cộng đồng dân tộc. Nếu các thành phần dân tộc vẫn tiếp tục chống đối
nhau, tiếp tục khai thác những bất đồng nhỏ nhặt, tiếp tục kéo dài những cuộc
tranh luận mà cả hai bên đều biết sẽ không đi đến đâu, rồi tất cả chỉ rơi vào
chiếc bẫy của đảng CS.
Một
khái niệm quen thuộc gần như nghe mỗi ngày là chính nghĩa quốc gia. Trước năm
1975, khi nghe nói đến chính nghĩa quốc gia chúng ta tự động nghĩ đến các thành
phần dân tộc đang chiến đấu chống Cộng Sản và về mặt địa lý, phải sống bên bờ
phía nam của sông Bến Hải. Ngày nay, nhận thức đó không còn đúng và biên giới
đó không còn tồn tại nữa. Khái niệm quốc gia dân tộc hôm nay mang ý nghĩa rộng
lớn hơn nhiều. Đó là chỗ dựa không phải chỉ dành cho những người Việt hải ngoại
mà cả đồng bào trong nước đang chịu đựng trong xích xiềng Cộng Sản, không phải
chỉ những người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà tất cả những ai quan tâm và
dấn thân vì một Việt Nam tự do dân chủ và thịnh vượng.
Nội
lực dân tộc phải bắt đầu từ mỗi con người Việt Nam trước khi chảy chung vào
dòng thác dân tộc. Cuộc biểu tình ngày 1 tháng 7 vừa qua với sự hiện diện của
rất nhiều thành phần, từ thanh niên sinh viên học sinh, nông dân, công nhân đến
các bậc bô lão và văn nghệ sĩ. Đó là những dấu hiệu tích cực. Họ có quá khứ
khác nhau nhưng cùng được thôi thúc bằng tinh thần yêu nước, truyền thống tự
chủ giống nhau. Tổng
cộng số người tham dự các cuộc biểu tình từ Hà Nội đến Sài Gòn vào khoảng vài
trăm nhưng có một giá trị tinh thần rất lớn. Bước chân của họ là khởi điểm cho
một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và triệt để đang diễn ra tại Việt
Nam. Quyền tự chủ dân tộc trong thời đại ngày nay gắn liền với dân chủ. Nói cụ
thể hơn, Việt Nam không bao giờ giành lại được Hoàng Sa, Trường Sa từ tay bá
quyền Trung Cộng bằng cơ chế chính trị độc tài mất lòng dân và không được quốc
tế ủng hộ như chế độ CSVN hiện nay.
Cuộc
cách mạng giành độc lập của Mỹ làm thay đổi khuôn mặt thế giới suốt mấy trăm
năm nay cũng chỉ bắt đầu bằng một nhóm nhỏ khoảng từ 30 đến 130 người đã can
đảm ném các thùng trà của Anh xuống vịnh Boston năm 1773. Tương tự, biến cố Phá
Ngục Bastille sáng ngày 14 tháng Bảy 1789 được chọn làm ngày quốc khánh Cộng
Hòa Pháp không phải để giải phóng nhiều trăm hay nhiều ngàn tù nhân chính trị
nhưng chỉ là hành động mang tính biểu tượng vì ngày đó nhà tù Bastille chỉ giam
giữ 7 tù nhân. Các
biến cố ném trà xuống biển, phá ngục Bastille hay cuộc biểu tình 1 tháng 7 vừa
qua tại Việt Nam đều không phải là biến cố lớn về hình thức nhưng chuyên chở
những nội dung lịch sử. Ba sự kiện có một đặc điểm giống nhau rằng cách mạng là
một tiến trình không thể nào đảo ngược. Chọn lựa hôm nay, vì thế, không còn là
chọn lựa của nhân dân Việt Nam mà là của giới cầm quyền. Bài học Tunisia, Ai
Cập, Libya và Miến Điện cho thấy thuận với lòng dân thì sống mà nghịch với lòng
dân sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát.
Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh có chính nghĩa và chính nghĩa luôn thắng trận cuối cùng. Từng giọt nước đã và đang được rót vào ly. Không ai biết giọt nước làm tràn ly sẽ rót xuống khi nào nhưng chắc chắn mọi người đều biết, sẽ rót xuống từ lòng dân tộc Việt Nam và thời gian không còn xa xôi nữa. Cả hơn 700 tờ báo đảng, dĩ nhiên không cùng hô đả đảo Trung Quốc xâm lăng trên trang nhất nhưng cũng không dám chỉ trích, không xám xúc phạm bởi vì đảng biết những bước chân trên đường phố Sài Gòn, Hà Nội hôm kia là những bước chân từ khát vọng thiêng liêng và trong sáng.
Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh có chính nghĩa và chính nghĩa luôn thắng trận cuối cùng. Từng giọt nước đã và đang được rót vào ly. Không ai biết giọt nước làm tràn ly sẽ rót xuống khi nào nhưng chắc chắn mọi người đều biết, sẽ rót xuống từ lòng dân tộc Việt Nam và thời gian không còn xa xôi nữa. Cả hơn 700 tờ báo đảng, dĩ nhiên không cùng hô đả đảo Trung Quốc xâm lăng trên trang nhất nhưng cũng không dám chỉ trích, không xám xúc phạm bởi vì đảng biết những bước chân trên đường phố Sài Gòn, Hà Nội hôm kia là những bước chân từ khát vọng thiêng liêng và trong sáng.
Ước
mơ của hai người lính, hai nhà văn miền Bắc và miền Nam mong được thấy các thế
hệ Việt Nam tương lai được sống trong hòa bình, ổn định sẽ thành sự thật. Tổ
tiên chúng ta đã làm được, ông bà chúng ta đã làm được và rồi chúng ta, con
cháu của các ngài, cũng sẽ làm được. Con tàu rộng thênh thang và mỗi ngày được
nối thêm nhiều toa mới, đủ chỗ cho mọi người có tâm huyết hướng về cùng điểm
hẹn tự do, dân chủ, nhân bản và thịnh vượng cho Việt Nam mãi mãi về sau.
Trần
Trung Đạo
No comments:
Post a Comment