Xây
dựng nhà nước Đệ nhị Cộng hòa - Kỳ 1: Định hình hai nhánh quyền lực Tổng thống
và Quốc hội
Hoàng Dạ Lan - Luật
Khoa tạp chí
JUL 8,
2024
https://www.luatkhoa.com/2024/07/xay-dung-nha-nuoc-de-nhi-cong-hoa-ky-1-dinh-hinh-hai-nhanh-quyen-luc-tong-thong-va-quoc-hoi/
Khung
cảnh lễ nhậm chức tổng thống tại Quảng trường Tự Do với sự có mặt của các đơn vị
đại diện của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Phía trên bên trái là tấm bảng lớn ghi
kết quả cuộc tranh cử tổng thống vào tháng 9 năm 1967. Nguồn ảnh: Douglas Pike
Photograph Collection, Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive, Texas
Tech University.
.
Lời
tòa soạn:
Chuỗi bài viết “Xây dựng nhà nước Đệ nhị Cộng hòa” của tác giả Hoàng Dạ Lan
phân tích mối quan hệ giữa hành pháp và lập pháp sau khi Hiến pháp Việt Nam Cộng
hòa 1967 được thông qua, từ đó cung cấp cái nhìn toàn cảnh để độc giả hiểu rõ
hơn về những thách thức và nỗ lực mà nền Đệ nhị Cộng hòa đã trải qua khi xây dựng
một chính thể dân chủ.
Cần
kíp bầu Quốc hội Lập hiến
Sau
chính biến ngày 1/11/1963 lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Việt Nam Cộng hòa trải
qua giai đoạn chuyển tiếp (1964 - 1967) đầy hỗn loạn khi các chính quyền dân sự
và quân sự liên tục được lập lên rồi đổ vỡ.
Năm
1966, nhiều cuộc biểu tình nổ ra ở miền Trung với sự tham gia của nhiều tầng lớp
xã hội như Phật tử, học sinh, sinh viên, trí thức, công chức và quân nhân. Người
biểu tình chỉ trích các tướng lĩnh vì khả năng lãnh đạo yếu kém và đấu đá phe
nhóm, đồng thời kêu gọi chính quyền Thiệu - Kỳ tổ chức bầu Quốc hội Lập hiến để
soạn thảo hiến pháp mới.
Trên
bình diện quốc tế, đối mặt với phong trào phản chiến dâng cao tại Mỹ và nhu cầu
biện minh cho việc triển khai lực lượng quân sự lớn trên lãnh thổ Việt Nam, vào
tháng 2/1966, Tổng thống Mỹ Johnson đã triệu tập hội nghị ở Honolulu với Quốc
trưởng Nguyễn Văn Thiệu và Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Liên
danh Dân chủ của Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ trong cuộc bầu cử tổng thống
năm 1967. Ảnh: Co Rentmeester. Nguồn ảnh: LIFE
Magazine.
Trong
cuộc hội đàm, Tổng thống Johnson nhấn mạnh chính quyền miền Nam Việt Nam cần
“chiếm được mức độ đồng thuận rộng rãi của quần chúng và tiến tới một mô hình
lãnh đạo chính trị dân chủ”. [1]
Trước
mối đe dọa bị thôn tính bởi cộng sản Bắc Việt, sự tồn vong của chế độ Sài Gòn
phụ thuộc vào việc thiết lập một nhà nước pháp quyền dựa trên một hiến pháp dân
chủ. Sau khi được hợp pháp hóa bởi một cuộc bầu cử, chính phủ có thể chính danh
tập hợp nguồn lực để giải quyết các thách thức mà đất nước đang đối mặt như đói
nghèo, lạm phát, tham nhũng hay tị nạn chiến tranh, v.v.
Chế
độ nghị viện sẽ cho phép các nhóm tôn giáo (Cao Đài, Hòa Hảo, Phật giáo, Công
giáo, v.v.) và đảng phái quốc gia (Đảng Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng, v.v.)
có đại diện trong chính quyền và tham gia đối thoại cởi mở để cùng tìm ra giải
pháp cho những vấn đề then chốt của đất nước.
Các
cuộc bầu cử công bằng và minh bạch cũng sẽ giúp loại bỏ những chính trị gia kém
cỏi, qua đó giúp hạn chế tình trạng đảo chính quân sự và củng cố tính ổn định của
chế độ. [2]
Một
số biểu tượng chính trị được sử dụng trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm
1967. Mỗi biểu tượng đại diện cho một liên danh ứng viên tổng thống - phó tổng
thống. Các biểu tượng bao gồm: bông lúa, cấy lúa, người gieo mạ, con trâu, bồ
câu trắng, hoa sen và lư hương, hoa sen nở, bản đồ miền Bắc và miền Nam Việt
Nam trên nền quốc kỳ. Hình cuối là biểu tượng của liên danh Nguyễn Văn Thiệu -
Nguyễn Cao Kỳ, liên danh được dự đoán có cơ hội thắng cao nhất. Nguồn ảnh: Manh
Hai Gallery/ Flickr.
Về
mặt quan hệ quốc tế, thể chế dân chủ không chỉ giúp chính quyền miền Nam tăng
cường vị thế và uy tín so với chế độ độc đảng của cộng sản Bắc Việt, mà còn thu
hút viện trợ kinh tế và quân sự, góp phần vào việc xây dựng và phát triển đất
nước.
Tuy
nhiên, giữa bối cảnh chiến tranh khốc liệt, việc tiến hành dân chủ hóa trong một
đất nước thiếu trải nghiệm dân chủ là một nhiệm vụ hết sức khó khăn.
Tổng
thống và Quốc hội: Sự phân chia quyền lực trong Hiến pháp 1967
Cuộc
bầu cử Quốc hội Lập hiến đã diễn ra vào ngày 11/9/1966. Và đến ngày 1/4/1967,
Hiến pháp mới được ban hành.
Về
mặt đại cương, Hiến pháp 1967 của Việt Nam Cộng hòa thiết lập chế độ Cộng hòa Tổng
thống. Theo đó, tổng thống nắm phần lớn quyền lực hành pháp và có quyền bổ nhiệm
hay bãi nhiệm thủ tướng. Vị trí thủ tướng được lập ra nhằm vừa hỗ trợ tổng thống,
vừa đứng mũi chịu sào khi Quốc hội bất tín nhiệm Chính phủ.
Tuy
nhiên, đây không phải là một chế độ tổng thống thuần túy. Để tránh hành pháp lạm
quyền, các nhà lập hiến đã trao cho Quốc hội nhiều quyền, bao gồm quyền thay thế
từng phần hay toàn thể Chính phủ.
https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1000/2024/07/xay-dung-nen-de-nhi-cong-hoa---2.png
Lễ
tuyên thệ nhậm chức Tổng thống của Nguyễn Văn Thiệu, nhiệm kỳ 1967-1971, được tổ
chức tại trung tâm Sài Gòn ngay trước trụ sở Quốc hội. Nguồn ảnh: Douglas Pike
Photograph Collection, Vietnam
Center and Sam Johnson Vietnam Archive, Texas Tech University.
Trong
nhánh lập pháp, quyền làm luật được ủy nhiệm cho cả Hạ Nghị viện (gọi tắt là Hạ
viện) và Thượng Nghị viện (gọi tắt là Thượng viện). Một dự luật muốn trở thành
luật thì ngoài việc vượt qua công đoạn làm luật ở lưỡng viện quốc hội, còn phải
được tổng thống chấp thuận ban hành. [3]
Ngoài
ra, Tối cao Pháp viện có thẩm quyền phán quyết về tính hợp hiến của các đạo luật
do cơ quan lập pháp ban hành cũng như các sắc lệnh, nghị định và quyết định
hành chính của hành pháp.
Quy
trình làm luật được thiết kế với nhiều điểm phủ quyết (veto points) nhằm tạo ra
một hệ thống cân bằng và kiểm soát, góp phần ngăn chặn việc thông qua các đạo
luật kém chất lượng hoặc các chương trình cải cách đơn phương, bồng bột. Chỉ những
dự luật được đông đảo các thành viên trong hệ thống ủng hộ mới có cơ hội được
thông qua và trở thành luật. [4]
Tuy
nhiên, sự tồn tại của nhiều điểm phủ quyết và quy trình làm luật phức tạp có thể
làm chậm quá trình ra quyết định khẩn cấp trong thời chiến và làm giảm hiệu quả
phản ứng của chính phủ.
Ngoài
ra, trong chế độ Cộng hòa Tổng thống, có thể xuất hiện nhiều mâu thuẫn và tranh
chấp quyền lực giữa hành pháp và lập pháp.
Tổng
thống được bầu lên một cách độc lập với cơ quan lập pháp và phục vụ một nhiệm kỳ
cố định, cũng như không cần duy trì tín nhiệm của cơ quan lập pháp để giữ quyền
lực. Điều này có thể làm giảm động lực hình thành các liên minh giữa hành pháp
và lập pháp. [5]
Khung
cảnh lễ nhậm chức tổng thống tại Quảng trường Tự Do với sự có mặt của các đơn vị
đại diện của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Phía trên bên trái là tấm bảng lớn ghi
kết quả cuộc tranh cử tổng thống vào tháng 9 năm 1967. Nguồn ảnh: Douglas Pike
Photograph Collection, Vietnam
Center and Sam Johnson Vietnam Archive, Texas Tech University.
Mối
quan hệ giữa hành pháp và lập pháp
Sự
tranh giành quyền lực giữa lập pháp và hành pháp của Đệ nhị Cộng hòa, đặc biệt
trong pháp nhiệm đầu tiên, là minh chứng rõ ràng cho cuộc cạnh tranh chính trị
trong bộ máy nhà nước của các quốc gia đang chuyển đổi chế độ. Nỗ lực xây dựng
dân chủ còn gặp nhiều thách thức do hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.
Tiến
sĩ Allan E. Goodman phân tích những vấn đề này trong cuốn sách "Politics
in War: The bases of Political Community in South Vietnam" (tạm dịch là
“Chính trị trong thời chiến: Nền tảng của cộng đồng chính trị tại miền Nam Việt
Nam).
Goodman
nghiên cứu thực địa từ tháng 8/1969 đến tháng 1/1970, trong đó phỏng vấn 280 cuộc
với các chính trị gia và quan chức chính phủ, đồng thời tổ chức nhiều cuộc thảo
luận chuyên sâu với 60 dân biểu Hạ viện. Qua đó, nghiên cứu nêu bật lên sự phức
tạp của việc xây dựng một “cộng đồng chính trị” và nâng cao sự ủng hộ của dân
chúng đối với chính quyền trong thời chiến.
Các
bài viết tiếp theo của loạt bài sẽ giới thiệu những điểm quan trọng trong
nghiên cứu của Goodman, giúp người đọc thấy được một bức tranh lịch sử
còn ít được biết đến ở Việt Nam. (còn tiếp)
------------
Chú
thích
[1] Presidential
Decisions: The Honolulu Conference February 6-8, 1966, 0240402002. Vietnam
Center and Archive. 01 November 1968, Box 04, Folder 02, Larry Berman
Collection (Presidential Archives Research), Vietnam Center and Sam Johnson
Vietnam Archive, Texas Tech University.
[2] Veith,
G. J. (2021). Building democracy during war: Nguyen Van Thieu and South
Vietnam, 1965-1975 [Doctoral dissertation, Monash University], page 63.
[3] Theo
điều 45 Hiến pháp 1967, Tổng thống có quyền yêu cầu phúc nghị một hay nhiều điều
khoản của dự luật. Quốc hội muốn bác bỏ yêu cầu phúc nghị của Tổng thống thì chỉ
cần hội đủ đa số quá bán.
[4] Chế
độ đại nghị thường có ít điểm phủ quyết hơn so với chế độ Cộng hòa Tổng thống
do thiếu sự phân quyền triệt để giữa hành pháp và lập pháp. Trong chế độ đại
nghị, các thành viên cấp cao của Chính phủ cũng thường là thành viên của Quốc hội.
Thủ tướng thường là lãnh đạo của đảng lớn nhất hoặc liên minh các đảng trong Quốc
hội. Do đó, thủ tướng trong chế độ đại nghị thường có nhiều nguồn lực để tiến
hành các kế hoạch cải tổ sâu rộng hơn so với tổng thống trong chế độ Cộng hòa Tổng
thống.
[5] Trong
hệ thống Cộng hòa Đại nghị, cơ quan hành pháp (bao gồm thủ tướng và nội các) được
hình thành từ cơ quan lập pháp và phải giữ được sự tín nhiệm của đa số nghị
viên để duy trì quyền lực. Do đó, hệ thống này tạo nhiều động lực thúc đẩy hình
thành và duy trì các liên minh giữa lập pháp và hành pháp hơn so với chế độ Cộng
hòa Tổng thống. Học giả Juan J. Linz cho rằng chế độ Cộng hòa Đại nghị có thành
tích tốt hơn chế độ Cộng hòa Tổng thống trong việc thiết lập nền tảng thể chế để
các quốc gia chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ thành công. Tham khảo thêm
Linz, J. J., & Stepan, A. (1996) Problems of democratic transition
and consolidation: Southern Europe, South America, and post-communist Europe.
The Johns Hopkins University Press.
No comments:
Post a Comment