.
.
.
Nguyên nhân và tác động
của việc dân số Trung Quốc giảm dần
Xiujian Peng
Bài đăng trên The Conversation
7 tháng 7
năm 2022
https://www.bbc.com/vietnamese/vert-fut-62084515
Lần đầu
tiên kể từ khi nạn đói khủng khiếp xảy ra cách đây 60 năm, dân số Trung Quốc có
xu hướng giảm. Tại sao vậy? Và điều này sẽ ảnh hưởng đến phần còn lại của thế
giới như thế nào?
Sự thật là
quốc gia đông dân nhất thế giới đang sắp sửa giảm bớt số người.
Trung Quốc
chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới, tuy nhiên sau bốn thập kỷ phát triển
tăng vọt từ 660 triệu lên 1,4 tỷ người, lần đầu tiên kể từ nạn đói khủng khiếp
1959-1961 đến nay, dân số của nước này đang có xu hướng giảm trong năm nay.
Theo số liệu
mới nhất từ Tổng cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, dân số nước này chỉ tăng từ
1,41212 tỷ người lên 1,41260 tỷ người vào năm 2021 - mức tăng thấp kỷ lục là
480.000 người, chỉ bằng một phần nhỏ so với mức tăng hàng năm 8 triệu người
trong một thập kỷ trước.
Mặc dù
tình trạng ngại sinh con do phải đối mặt với các biện pháp phòng chống chống
Covid nghiêm ngặt cũng góp phần làm giảm tỷ lệ sinh, nhưng xu hướng này đã kéo
dài từ nhiều năm.
Tỷ suất
sinh sản trung bình (số trẻ em sinh ra tính trên một phụ nữ) của Trung Quốc là
2,6 vào cuối những năm 1980 - cao hơn nhiều so với mức 2,1 là mức cần thiết đủ
để thay thế tỷ lệ tử vong. Tỷ suất này đã tụt xuống 1,6 đến 1,7 kể từ năm 1994;
giảm còn 1,3 vào năm 2020 và chỉ đạt 1,15 vào năm 2021.
Để so sánh
thì Úc và Hoa Kỳ có tỷ suất sinh sản là 1,6 lần sinh trên một phụ nữ. Nhật Bản
là nơi dân số già nhưng tỷ lệ này cũng đạt 1,3.
Điều này xảy
ra bất chấp việc Trung Quốc đã bãi bỏ chính sách "mỗi gia đình chỉ có một
con" vào năm 2016 và thay thế bằng chính sách khuyến khích mỗi gia đình
nên sinh ba con, thậm chí năm ngoái còn đưa ra hỗ trợ thuế và các ưu đãi khác
cho các gia đình sinh nhiều con.
Có nhiều
giả thuyết khác nhau giải thích lý do tại sao phụ nữ Trung Quốc vẫn không muốn
sinh con kể cả khi được hưởng nhiều ưu đãi của nhà nước.
Một khả
năng là người dân đã quen với các gia đình ít con. Một vấn đề khác liên quan đến
chi phí sinh hoạt tăng cao, trong khi những người khác cho rằng nó có thể liên
quan đến tuổi kết hôn ngày càng tăng, điều này làm trì hoãn việc sinh con và
làm giảm mong muốn có con.
Ngoài ra,
hiện nay Trung Quốc có ít phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ hơn dự kiến.
Bị giới hạn
chỉ được sinh một con kể từ năm 1980, nhiều cặp vợ chồng đã chọn sinh con trai,
nâng tỷ số giới tính khi sinh từ 106 trẻ trai trên 100 trẻ gái (là tỷ lệ có ở hầu
hết các quốc gia còn lại trên thế giới) tăng vọt lên 120/100, thậm chí ở một số
tỉnh mất cân bằng đến tận 130/100.
Sau
năm 2021, các nhà nghiên cứu dự đoán rằng hàng năm dân số Trung Quốc sẽ giảm
trung bình 1,1%/năm
Những dự
phóng do một nhóm nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội Thượng Hải đưa ra nói
rằng năm nay - lần đầu tiên sau nạn đói - dân số của Trung Quốc sẽ có mức tăng
thấp là 0,49 phần nghìn. Tuy nhiên, trên thực tế dân số nước này đã có mức tăng
thấp sau nạn đói, chỉ đạt 0,34 trên 1.000 vào năm ngoái luôn rồi.
Bước ngoặt
đã đến sớm hơn một thập kỷ so với dự kiến.
Gần đây nhất
vào năm 2019, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc trông đợi dân số sẽ đạt đỉnh vào
năm 2029, ở mức 1,44 tỷ người. Phúc trình Triển vọng Dân số của Liên Hiệp Quốc
năm 2019 dự kiến đỉnh cao dân số Trung Quốc là 1,46 tỷ sẽ xảy ra muộn hơn, vào
năm 2031-32.
Nhóm
nghiên cứu của Học viện Khoa học Xã hội Thượng Hải dự đoán mức giảm trung bình
hàng năm là 1,1%/năm sau 2021, đẩy dân số Trung Quốc xuống 587 triệu người vào
năm 2100, chưa bằng một nửa so với hiện nay.
Các giả định
hợp lý đằng sau dự đoán nói trên là tỷ lệ sinh của Trung Quốc giảm từ 1,15 xuống
1,1 trong thời gian từ nay đến năm 2030 và duy trì ở mức đó cho đến năm 2100.
Sự suy giảm
dân số nhanh chóng sẽ tác động sâu sắc đến kinh tế Trung Quốc.
Dân số
trong độ tuổi lao động của Trung Quốc đạt đỉnh vào năm 2014 và dự kiến sẽ giảm
xuống dưới một phần ba mức cao nhất đó vào năm 2100.
Dân số cao
tuổi của Trung Quốc (từ 65 tuổi trở lên) dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong phần lớn
thời gian đó; đến gần năm 2080 lượng người già sẽ nhiều hơn dân số trong độ tuổi
lao động của Trung Quốc.
Trung Quốc bãi bỏ chính sách mỗi gia
đình chỉ có một con vào năm 2016
Điều này
có nghĩa là hiện nay cứ 20 người già được 100 người trong độ tuổi lao động hỗ
trợ, thì đến năm 2100, 100 người Trung Quốc trong độ tuổi lao động sẽ phải hỗ
trợ tới 120 người Trung Quốc cao tuổi.
Mức giảm
trung bình hàng năm là 1,73% dân số trong độ tuổi lao động của Trung Quốc đặt
ra bối cảnh cho tăng trưởng kinh tế thấp hơn nhiều, trừ phi năng suất tăng
nhanh thần tốc.
Chi phí
lao động cao hơn, do lực lượng lao động thu hẹp nhanh chóng, sẽ đẩy các ngành sản
xuất sử dụng nhiều lao động thủ công, tỷ suất lợi nhuận thấp ra khỏi Trung Quốc
để chuyển sang các nước có nguồn nhân công dồi dào như Việt Nam, Bangladesh và Ấn
Độ.
Hiện chi phí lao động sản xuất ở Trung Quốc cao gấp
đôi Việt Nam.
Đồng thời,
Trung Quốc sẽ phải dành nhiều nguồn lực của mình hơn cho việc cung cấp các dịch
vụ y tế, sức khỏe và chăm sóc người cao tuổi để đáp ứng nhu cầu của dân số ngày
càng già.
Mô hình của
Trung tâm Nghiên cứu Chính sách tại Đại học Victoria ở Úc cho thấy rằng nếu
không có thay đổi đối với hệ thống hưu bổng của Trung Quốc thì các khoản chi trả
lương hưu của nước này sẽ tăng gấp 5 lần, từ 4% GDP vào năm 2020 lên 20% GDP
vào năm 2100.
Đối với
các quốc gia xuất khẩu tài nguyên như Australia, những thay đổi này có thể đòi
hỏi phải định hướng lại xuất khẩu sang các lãnh thổ khác ngoài Trung Quốc. Đối
với các nhà nhập khẩu hàng hóa bao gồm cả Hoa Kỳ, nguồn hàng nhập được điều chỉnh
chuyển dần sang các trung tâm sản xuất mới và đang phát triển.
Bất chấp
nhiều dự báo rằng đây sẽ là "thế kỷ của Trung Quốc", những giả thiết
về dân số này cho thấy mức ảnh hưởng có thể sẽ chuyển sang nơi khác - bao gồm
nước láng giềng Ấn Độ, quốc gia có dân số dự kiến sẽ vượt qua Trung Quốc trong
vòng thập kỷ tới.
-------------------------------
Bành Tu
Kiến (Xiujian Peng) làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Chính sách, Đại học
Victoria. Trong năm năm qua bà đã được trao những khoản tài trợ từ một số tổ chức,
trong đó có Học viện Khoa học Xã hội Thượng Hải, Đại học Nông nghiệp Hà Nam và
Viện Nghiên cứu Kinh tế và Công nghệ CHN.
Bài
tiếng Anh đã
đăng trên The Conversation, được biên tập lại và đăng trên BBC
Future theo giấy phép Creative Commons.
No comments:
Post a Comment